Hy Vọng Kitô Giáo – Nhân Đức Đối Thần

Chia sẻ đến mọi người cùng đọc

Năm Thánh – Một Chút Suy Tư

Tháng Giêng

Vào ngày mùng 03 tháng Giêng, 2021, tại buổi họp đầu tiên về Năm Thánh 2025, chủ đề “Người Hành Hương của Hy Vọng” (Pilgrims of Hope) được đề cập; thông báo chính thức mở Năm Thánh 2025 với chủ đề này được đưa ra vào ngày 22 tháng Hai, 2022. Hai năm chuẩn bị kế tiếp với những mục tiêu được đưa ra rất cụ thể. Năm 2023 – Năm suy tư (học hỏi) bốn tài liệu của Công Đồng Vatican II cùng các Huấn Quyền gần đây của Hội Thánh. Năm 2024 – Năm cầu nguyện. Riêng cá nhân tôi, tôi thích dùng chữ Hy Vọng Kitô Giáo hơn chữ Hy Vọng.1

Tại sao là Hy Vọng Kitô Giáo?

Đối với Kitô Giáo, hy vọng là một nhân đức đối thần với tên gọi trước đây là đức cậy. Trong 25 năm đầu của thế kỷ XXI, con người đã thành công quá nhiều trên mọi lãnh vực, nhất là kỹ thuật và y khoa. Có phải vì những thành công này mà cuộc sống người Kitô dần lãng quên niềm hy vọng như một nhân đức đối thần. Niềm hy vọng Kitô Giáo bị giảm thiểu xuống, hay có thể nói là bị lãng quên hoặc mất đi, để nó chỉ còn được hiểu theo nghĩa bình thường của từ hy vọng. Kết quả là niềm hy vọng của con người không đưa họ đến niềm vui đích thực trong tâm hồn và một xã hội mất tiêu chuẩn hướng thượng, một xã hội tham nhũng hệ thống hơn, và một xã hội nhiều chiến tranh bạo lực hơn. Trong bối cảnh xã hội như thế, người Kitô bị thử thách nhiều và quên đi những điều tốt đẹp và cao cả mà chính Thiên Chúa đã ban tặng từ khi tạo dựng. Năm Thánh với chủ đề Hy Vọng Kitô Giáo có thể giúp người Kitô tìm về chiều kích siêu việt của niềm hy vọng, một niềm hy vọng đưa ta vào một mối tương quan gặp gỡ cá vị với Đấng lập nên Kitô Giáo và Cha của Ngài.

Hy vọng Kitô Giáo là gì?

Giáo Lý của Hội Thánh nói rất rõ về nhân đức đối thần này từ số 1817 đến 1821 trong Sách Giáo Lý. Cả Kinh Thánh và Sách Giáo Lý nhắc đến Abraham như khuôn mẫu cho người Kitô trong việc sống nhân đức đối thần này. Nhân đức này diễn tả một khao khát về hạnh phúc vĩnh cửu được đặt trên lời hứa của Thiên Chúa và của Đức Giêsu Kitô. Khao Khát về một hạnh phúc vĩnh cửu và sống sự khao khát này là một điều “rất khó” có thể đạt được.

Ta không cần hy vọng nếu ta đạt được điều mình muốn quá dễ dàng. Khi chỉ dùng riêng từ hy vọng, điều mong muốn và hướng về sẽ không (chưa) có gì lớn lao cả và có thể không phải hạnh phúc vĩnh cửu. Như thế, khi dùng chữ Hy Vọng Kitô Giáo là một điều có liên hệ trực tiếp tới Thiên Chúa và nó có thể bắt đầu với những hy vọng bình thường của cuộc sống, nhưng không bao giờ dừng lại ở đó. Hy Vọng Kitô Giáo buộc người Kitô phải tuyên xưng Thiên Chúa là đích đến duy nhất của cuộc đời họ, và chỉ có lời hứa của Thiên Chúa mới có sức mạnh làm ta hy vọng. Nếu hy vọng thông thường nảy sinh từ những ước muốn một điều gì đó tốt đẹp chưa đến, Hy Vọng Kitô Giáo không chỉ có thế, nhưng còn vượt cao hơn và táo bạo hơn nhiều. Hy Vọng Kitô Giáo không bao giờ là chăm chỉ tập luyện trong kiên trì và quyết tâm, nhưng trên hết là một món quà cụ thể Thiên Chúa ban tặng con người, điều ta có thể sở hữu khi bước vào tương quan cá nhân một cách cụ thể với Đấng dựng nên ta vì quá tốt lành, ở giữa ta vì quá yêu thương, và thánh hóa ta vì quá quảng đại. Chính lòng tốt, tình yêu thương và sự quảng đại của Thiên Chúa viết nên lịch sử của một mối quan hệ và trong mối quan hệ đó, hình hài của Hy Vọng Kitô Giáo được hình thành. Như vậy, Hy Vọng Kitô Giáo vừa là đích đến, vừa là phương tiện để đưa người Kitô về đến đích của họ. Nói theo ngôn ngữ của Đức Benedicto XVI: người có Hy Vọng Kitô Giáo sẽ sống rất khác, vì họ đã được ban tặng một món quà chính là một cuộc sống mới (cf. Thông Điệp Spe Salvi số 2). Cả hai thông điệp Deus Caritas Est (Thiên Chúa là Tình Yêu) và Spe Salvi (Được Cứu trong Hy Vọng), Đức Benedicto XVI đã xác định: Tình Yêu và Hy Vọng Kitô Giáo không bao giờ là một cảm xúc, càng không phải là một thái độ sống trong lúc khó khăn. Khi ai đó sống với Tình Yêu Kitô Giáo và trong Hy Vọng Kitô Giáo, người đó đã đặt cuộc sống mình trên một lập trường kiên định, một sự tin tưởng tuyệt đối và sự kiên trì không gì lay chuyển. Người Kitô tập sống nhân đức đối thần là tập mở lòng mình để bước theo và sẵn lòng bước vào một mối tương quan với Thiên Chúa, Đấng tiếp tục công trình tạo dựng với muôn vàn sự ngạc nhiên trong từng giây phút. Đây mới chính là những bước chân của người Hành Hương trong Hy Vọng Kitô Giáo.

Là một nhân đức đối thần, Hy Vọng Kitô Giáo giúp ta nhận ra chính mình là ai và đang đi đâu. Người Kitô luôn tự nhận mình là người hành hương về quê trời. (1)Đối với đích đến của cuộc đời, Hy vọng Kitô Giáo giúp người Kitô luôn tập trung vào đích đến của mình trong hành trình ấy. Điều khác biệt giữa Hy Vọng Kitô Giáo và hy vọng bình thường chính ở điểm này, bởi vì Hy Vọng Kitô Giáo không cho phép người Kitô dừng lại và nhất là không bao giờ bằng lòng với bất cứ điều gì không phải là Nước Trời, không phải là chính Chúa. (2)Đối với việc biết chính mình, Hy Vọng Kitô Giáo tạo nên những người hành hương đích thực. Họ là những con người không chìm đắm vào những gì bên đường vì họ luôn luôn phải lên đường. Người Kitô là người luôn di chuyển, luôn tiến về một nơi hoàn toàn khác với con đường và túp lều trần thế của họ, để có thể gặp được một Đấng hoàn toàn khác với chính họ và những bạn hành hương khác. Hy Vọng Kitô Giáo giúp người Kitô nhận ra không còn gì thực sự quan trọng với chính mình nữa, ngay cả những thành công mỹ mãn không theo tiêu chuẩn của trời cao. Đây là điểm khác biệt mà từ “Đức Trông Cậy” có thể diễn tả tốt hơn từ hy vọng. Sự thành công của một người hành hương chính là bước tiếp để viết lịch sử của đời mình và luôn nhận ra mình bằng những dấu chân trên đường đi. Thiết nghĩ, đây mới chính là điều Hội Thánh muốn con cái mình sống Năm Thánh.

Thực hành và nuôi dưỡng Hy Vọng Kitô Giáo như thế nào?

Đã có quá nhiều chương trình cho Năm Thánh. Việc chuẩn bị Năm Thánh và những thực hành Năm Thánh theo truyền thống của Kinh Thánh và Hội Thánh luôn được đề cao. Dầu vậy, ta cần chú ý là Hy Vọng Kitô Giáo sẽ luôn giúp ta sống những hy vọng bình thường trọn vẹn hơn chứ không phải ngược lại. Vậy, việc thực hành đầu tiên chính là (1) cử hành phụng vụ. Việc cử hành này giúp ta ý thức mình thuộc về một Thiên Chúa, một dân tộc và nhất là việc khẳng định Thiên Chúa là đối tượng của Hy Vọng. Kế đến là (2) lòng biết ơn. Từng bước chân của người hành hương sẽ nhắc họ mọi sự không thuộc về họ. Mọi sự đều ở đích đến và chính Thiên Chúa là Người ban phát cho họ qua những người đồng hành, qua những biến cố xảy ra trên đường, và qua cả lý trí và sức khỏe của họ. Chính lòng biết ơn giúp người hành hương vượt lên những gì khó khăn của cuộc hành trình và tận hưởng những phúc lành, niềm vui, và ân tình của những gì trên con đường hành hương. Điều cuối cùng là (3) lòng quảng đại chia sẻ. Chính sự quảng đại chia sẻ là dấu của một người đang hành hương trong hy vọng Kitô Giáo. Trên con đường thì không có gì sở hữu cả, người hành hương cần trả lại mọi sự không thuộc về họ, hoặc san sẻ những gì họ có trước khi lên đường. Nơi từng bước chân, nhu cầu của họ trở nên tối thiểu và giống với tất cả mọi bạn hành hương khác. Khi nhận ra mình có điều gì đó hơn mọi người, người hành hương đích thực sẽ chia sẻ (chia đều) để mọi người cùng tồn tại và cùng bước đi. Sự quảng đại mà Hy Vọng Kitô Giáo mang lại chính là sự phục vụ cho một lợi ích chung, một lợi ích lớn hơn tất cả những gì họ có thể nghĩ ra. Theo cách nói của Kitô Giáo, đó chính là “công việc mục vụ” và trên hết mọi mục vụ chính là công nhận sự hiện diện của người khác và cùng nhau, mọi người hướng về nơi mà họ cùng tận hưởng hạnh phúc vĩnh cửu và sự nghỉ ngơi mà Thiên Chúa mời gọi sau khi tạo dựng nên họ.

Hy vọng bình thường về một điều gì đó có thể quá muộn đối với ai đó. Nhưng Hy Vọng Kitô Giáo sẽ không bao giờ là muộn màng cho bất cứ ai, bất cứ đâu và bất cứ lúc nào; vì ai cũng có đích đến là hạnh phúc vĩnh cửu. Họ có thể bắt đầu từ bất cứ nơi đâu, và bất cứ giây phút hiện tại nào. Những suy tư nhỏ nhoi này được gợi hứng từ việc thảo luận một chút về từ Hy Vọng trong chủ đề của Năm Thánh. Từ đó, ta có thể thấy được nét đẹp của ngôn ngữ và chủ đích của người dùng nó. Đối với bạn, bạn thích dùng từ nào để diễn tả về Nhân Đức Đối Thần: Hy Vọng hay Hy Vọng Kitô Giáo hay Đức Cậy hay Đức Trông Cậy.

 

Người LHành.

Khi đu tun lcu nguyn cho ship nht Kitô Giáo, 2025   


1
Khi bàn về một chút chủ đề của Năm Thánh trong tiếng Việt: Người Hành Hương của Hy Vọng, câu hỏi được đặt ra là phải dịch chữ Pilgrims of Hope (Peregrinates in Spem): Hy Vọng hay Đức Cậy hay Hy Vọng Kitô Giáo. Riêng trong tiếng Anh, chữ Hope được dùng để chỉ nhân đức đối thần và (niềm) hy vọng bình thường . Tiếng Việt đã có hai từ rất riêng: Đức Cậy (hay Hy Vọng Kitô Giáo) và hy vọng. Có lẽ ngữ cảnh khi ngôn ngữ được dùng sẽ phần nào xác định ý nghĩa của từ. Dầu vậy, có chút tiếc nuối cho chữ Đức Cậy vì không được dùng nhiều trong Năm Thánh.