
BỘ GIÁO LÝ ĐỨC TIN
BỘ VĂN HÓA VÀ GIÁO DỤC
ANTIQUA ET NOVA
Ghi chú về mối liên hệ giữa trí tuệ nhân tạo và trí tuệ con người
Chuyển ngữ Lm. André Tuấn, AA
I. Giới thiệu
- Với một sự khôn ngoan vừa cổ xưa vừa mới mẻ (x. Mt 13,52), chúng ta được mời gọi xem xét những thách đố và cơ hội hôm nay do tri thức khoa học và công nghệ đặt ra, đặc biệt là sự phát triển gần đây của trí tuệ nhân tạo (AI). Truyền thống Kitô giáo coi ân ban trí tuệ là một khía cạnh thiết yếu của việc con người được tạo dựng « theo hình ảnh Thiên Chúa » (St 1,27). Từ cái nhìn toàn diện về con người và việc đánh giá cao lời kêu gọi « canh tác » và « gìn giữ » trái đất (x. St 2,15), Hội Thánh nhấn mạnh rằng ân ban này phải được thể hiện qua việc sử dụng có trách nhiệm lý trí và khả năng kỹ thuật để phục vụ thế giới thụ tạo.
- Hội Thánh khích lệ những tiến bộ của khoa học, công nghệ, nghệ thuật và mọi hoạt động nhân loại khác, xem chúng như một phần của « sự cộng tác của người nam và người nữ với Thiên Chúa trong việc hoàn thiện công trình sáng tạo hữu hình » [1]. Như sách Huấn Ca khẳng định: Thiên Chúa « đã ban khoa học cho loài người để Ngài được tôn vinh trong các kỳ công của Ngài » (Hc 38,6). Khả năng và óc sáng tạo của con người xuất phát từ Ngài, và khi được dùng đúng đắn, chúng làm rạng danh Ngài như phản chiếu sự khôn ngoan và nhân hậu của Ngài. Vì thế, khi tự hỏi « làm người nghĩa là gì », chúng ta không thể loại trừ việc xét đến các khả năng khoa học và công nghệ của mình.
- Trong viễn cảnh ấy, ghi chú này đề cập đến những vấn đề nhân học và luân lý do AI nêu ra, càng thích đáng hơn vì một trong những mục tiêu của công nghệ này là mô phỏng trí tuệ con người đã tạo ra nó. Chẳng hạn, khác với nhiều sáng tạo nhân loại khác, AI có thể được huấn luyện trên những sản phẩm của trí khôn con người và nhờ đó tạo ra các « hiện vật » mới với mức độ nhanh chóng và thành thạo thường ngang bằng hoặc vượt quá khả năng con người, như việc tạo ra văn bản hoặc hình ảnh không thể phân biệt với tác phẩm của con người, điều này dấy lên lo ngại về ảnh hưởng tiềm tàng của nó đối với tình trạng khủng hoảng sự thật ngày càng gia tăng trong tranh luận công cộng. Hơn nữa, vì công nghệ này được thiết kế để học hỏi và đưa ra một số lựa chọn một cách tự chủ, thích nghi với tình huống mới và đem lại những giải pháp không nằm trong dự trù của lập trình viên, những vấn đề hệ trọng về trách nhiệm đạo đức và an toàn nảy sinh, kéo theo hệ quả rộng lớn đối với toàn xã hội. Tình thế mới này dẫn nhân loại đến chỗ tự vấn về căn tính và vai trò của mình trong thế giới.
- Nhìn chung, có sự đồng thuận rộng rãi rằng AI đánh dấu một giai đoạn quan trọng mới trong mối tương quan của nhân loại với công nghệ, ở trung tâm điều Đức Thánh Cha Phanxicô gọi là một « sự thay đổi thời đại » [2]. Ảnh hưởng của nó được cảm nhận trên toàn cầu trong nhiều lĩnh vực: quan hệ liên cá nhân, giáo dục, lao động, nghệ thuật, chăm sóc sức khỏe, pháp luật, chiến tranh và quan hệ quốc tế. Khi AI tiếp tục tiến nhanh đến những đỉnh cao hơn nữa, điều tối quan trọng là phải xem xét các hệ lụy nhân học và luân lý của nó. Không chỉ nhằm giảm thiểu rủi ro và ngăn ngừa thiệt hại, mà còn phải bảo đảm các ứng dụng của nó được định hướng thúc đẩy tiến bộ con người và ích chung.
- Nhằm đóng góp tích cực cho việc biện phân về AI, đáp lại lời kêu gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô về một « khôn ngoan của con tim » mới [3], Hội Thánh cống hiến kinh nghiệm của mình qua những suy tư trong Ghi chú này, tập trung vào các khía cạnh nhân học và luân lý. Tham gia tích cực vào cuộc thảo luận chung về những vấn đề này, Hội Thánh kêu gọi những người có nhiệm vụ truyền đạt đức tin (cha mẹ, nhà giáo, mục tử và giám mục) tận tâm và chú ý đến vấn đề cấp bách này. Tuy được đặc biệt gửi đến họ, tài liệu này cũng muốn mở ra cho một công chúng rộng hơn, tức là những người chia sẻ nhu cầu phát triển khoa học và công nghệ phục vụ con người và ích chung [4].
- Để đạt mục tiêu đó, trước hết chúng tôi sẽ phân biệt khái niệm « trí tuệ » liên quan đến AI và đến con người. Trước tiên, cái nhìn Kitô giáo về trí tuệ con người sẽ được xem xét, cung cấp một khung suy tư tổng quát dựa trên truyền thống triết học và thần học của Hội Thánh. Sau đó, một số đường hướng sẽ được đề nghị, nhằm bảo đảm rằng việc phát triển và sử dụng AI tôn trọng phẩm giá con người và thúc đẩy phát triển toàn diện của cá nhân cũng như xã hội.
II. Trí tuệ nhân tạo là gì?
- Khái niệm trí tuệ trong AI đã phát triển theo thời gian, quy tụ nhiều ý tưởng đến từ nhiều ngành khác nhau. Tuy gốc rễ của nó có thể truy nguyên nhiều thế kỷ, một dấu mốc quan trọng diễn ra năm 1956 khi nhà khoa học máy tính Hoa Kỳ John McCarthy tổ chức một hội thảo mùa hè tại Đại học Dartmouth để bàn về vấn đề “intelligence artificielle”, được định nghĩa là “làm cho một cỗ máy có thể biểu lộ một hành vi mà ta sẽ gọi là thông minh nếu một con người tạo ra” [5]. Hội thảo khởi xướng một chương trình nghiên cứu nhằm sử dụng các máy móc có khả năng thực hiện những nhiệm vụ vốn gắn liền với trí tuệ và hành vi thông minh của con người.
- Kể từ đó, nghiên cứu trong lĩnh vực này tiến triển nhanh chóng, dẫn đến việc phát triển các hệ thống phức tạp có thể hoàn thành những công việc rất tinh vi [6]. Những hệ thống “AI hẹp” này thường được thiết kế để thực hiện các nhiệm vụ giới hạn và cụ thể, chẳng hạn như dịch ngôn ngữ, dự báo diễn biến bão, phân loại hình ảnh, trả lời câu hỏi hay tạo hình ảnh theo yêu cầu người dùng. Dù vẫn còn nhiều định nghĩa về “trí tuệ” trong các nghiên cứu AI, phần lớn hệ thống hiện nay, nhất là những hệ thống dùng machine learning, dựa trên suy luận thống kê hơn là suy luận lô-gíc. Bằng cách phân tích các tập dữ liệu lớn để tìm các mẫu, AI có thể “dự đoán” [7] tác động của chúng và đề xuất hướng nghiên cứu mới, bắt chước một số tiến trình nhận thức đặc trưng cho khả năng giải quyết vấn đề của con người. Điều này khả thi nhờ các tiến bộ trong công nghệ tính toán (như mạng nơ-ron, học máy không giám sát và thuật toán tiến hóa) cũng như các cải tiến phần cứng (như bộ xử lý chuyên dụng). Những công nghệ ấy cho phép hệ thống AI đáp ứng các loại kích thích khác nhau đến từ con người, thích nghi với tình huống mới và thậm chí đưa ra các giải pháp chưa từng được lập trình viên ban đầu dự liệu [8].
- Do những tiến bộ nhanh chóng ấy, nhiều nhiệm vụ trước kia chỉ con người mới làm được nay được giao cho AI. Các hệ thống này có thể bổ sung, thậm chí thay thế khả năng con người trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là các tác vụ chuyên biệt như phân tích dữ liệu, nhận dạng hình ảnh và chẩn đoán y khoa. Dù mỗi ứng dụng AI “hẹp” được hiệu chỉnh cho một nhiệm vụ cụ thể, nhiều nhà nghiên cứu hy vọng đạt tới cái gọi là “intelligence artificielle générale” (AGI), tức một hệ thống duy nhất, hoạt động trong mọi lãnh vực nhận thức, có thể thực hiện mọi nhiệm vụ thuộc tầm trí tuệ con người. Có người cho rằng một AI như vậy một ngày nào đó có thể đạt tới giai đoạn “siêu trí tuệ”, vượt quá khả năng trí tuệ của con người, hoặc góp phần vào “siêu trường thọ” nhờ tiến bộ công nghệ sinh học. Những người khác lo ngại rằng các khả năng – dù còn giả thiết – ấy một ngày nào đó có thể làm lu mờ chính con người, trong khi lại có người hân hoan trước viễn cảnh biến đổi đó [9].
- Nền tảng của những quan điểm ấy, cũng như nhiều lập trường khác về chủ đề này, là giả định rằng từ “trí tuệ” được áp dụng cho cả trí tuệ con người lẫn AI. Tuy nhiên, điều đó dường như không phản ánh đầy đủ phạm vi thực của khái niệm. Thật vậy, nơi con người, trí tuệ là một năng lực gắn với toàn bộ nhân vị, còn nơi AI, trí tuệ được hiểu theo nghĩa chức năng, thường giả định rằng các hoạt động đặc thù của trí khôn con người có thể phân tách thành những bước có thể số hoá, đến mức máy móc cũng có thể sao chép [10].
- Viễn tượng chức năng này được minh họa qua bài kiểm tra Turing: một cỗ máy được xem là “thông minh” nếu một người không thể phân biệt hành vi của máy với hành vi của một con người khác [11]. Cụ thể, trong bối cảnh này, từ “hành vi” chỉ các nhiệm vụ trí tuệ nhất định, không xét toàn bộ trải nghiệm nhân linh, bao gồm năng lực trừu tượng, cảm xúc, sáng tạo, cảm thức thẩm mỹ, luân lý và tôn giáo, cùng muôn vàn biểu hiện khác mà tinh thần con người có thể có. Do đó, trong trường hợp AI, “trí tuệ” của một hệ thống được đánh giá – theo phương pháp nhưng cũng mang tính giản lược – dựa trên khả năng sản sinh câu trả lời thích hợp, tức những câu trả lời gắn liền với trí tuệ con người, bất kể các câu trả lời ấy được tạo ra như thế nào.
- Những đặc tính tiên tiến giúp AI thực hiện nhiệm vụ một cách tinh vi, nhưng không ban cho nó năng lực tư duy [12]. Phân biệt này có tầm quan trọng quyết định, vì cách định nghĩa “trí tuệ” sẽ tất yếu giới hạn cách hiểu về mối tương quan giữa tư duy con người và công nghệ này [13]. Do vậy, cần nhớ rằng di sản phong phú của triết học và thần học Kitô giáo cống hiến một cái nhìn sâu xa và toàn diện hơn về trí tuệ – vốn là trọng tâm giáo huấn của Hội Thánh về bản tính, phẩm giá và ơn gọi của con người [14].
III. Trí tuệ trong truyền thống triết học và thần học
Lý trí
- Ngay từ thuở bình minh của tư tưởng nhân loại, tâm trí đã đóng vai trò trung tâm trong việc hiểu thế nào là “làm người”. Aristôt đã nhận xét: «mọi người tự bản tính đều khao khát tri thức»[15]. Tri thức này, nhờ khả năng trừu xuất để nắm bắt bản tính và ý nghĩa của sự vật, phân biệt con người với thế giới động vật[16]. Bản chất chính xác của trí tuệ là đối tượng nghiên cứu của các triết gia, thần học gia và tâm lý gia; họ cũng khảo sát cách thức con người hiểu và tham dự vào thế giới, dù vẫn giữ vị thế độc đáo của mình. Qua cuộc tìm kiếm ấy, truyền thống Kitô giáo đạt tới việc hiểu con người như một hữu thể gồm thân xác và linh hồn, cả hai vừa gắn chặt với trần thế vừa hướng vượt lên trên[17].
- Trong truyền thống cổ điển, khái niệm trí tuệ (intelligentia) thường được triển khai qua hai thuật ngữ bổ túc: “lý trí” (ratio) và “trí năng” (intellectus). Đây không phải hai năng lực tách biệt, nhưng – theo thánh Tôma Aquinô – là hai cách vận hành của cùng một trí tuệ: «tiếng intellectus gợi đến việc thấu nhập nội tại chân lý, còn ratio chỉ tìm kiếm và lập luận diễn dịch»[18]. Mô tả vắn gọn ấy nêu bật hai đặc ân căn bản và tương hỗ của trí tuệ nhân loại: intellectus là trực giác chân lý, nghĩa là “chiêm ngắm” bằng con mắt nội tâm, nắm giữ và làm nền cho lập luận; ratio thuộc về tư duy diễn dịch – phân tích, dẫn tới phán đoán. Hợp nhất, chúng tạo thành hai mặt của duy nhất hành vi intelligere, «hoạt động riêng có của con người như là con người»[19].
- Gọi con người là hữu thể “có lý trí” không phải giới hạn họ vào một lối suy nghĩ đặc thù; trái lại, đó là nhìn nhận rằng khả năng hiểu biết trí tuệ định hình và thấm nhập mọi hoạt động của họ[20], đồng thời – tốt hay xấu – là thành phần nội tại của bản tính nhân loại. «Từ “lý trí” thực ra bao trùm mọi năng lực nơi con người: nhận biết, thấu hiểu, ước muốn, yêu thương, chọn lựa»[21]. Quan điểm rộng mở ấy cho thấy, nơi người được tạo theo “hình ảnh Thiên Chúa”, lý tính hòa nhập để nâng cao, uốn nắn và biến đổi cả ý chí lẫn hành động[22].
Nhập thể
- Tư tưởng Kitô giáo khảo cứu các năng lực trí tuệ trong khung nhân học toàn diện, quan niệm con người là hữu thể cốt yếu nhập thể. Nơi nhân vị, tinh thần và vật chất «không phải hai bản tính ghép lại, nhưng sự kết hợp của chúng hình thành một bản tính duy nhất»[23]. Linh hồn không phải “phần” vô hình nằm trong thân xác; thân xác cũng không chỉ là vỏ bọc ngoài của “nhân lõi” mong manh: toàn bộ con người đồng thời mang tính vật chất và tinh thần. Cách suy nghĩ ấy phản ánh Kinh Thánh, khi coi nhân vị là hữu thể sống tương quan với Thiên Chúa và tha nhân – tức chiều kích thiêng liêng – trong và nhờ hiện hữu thân xác[24]. Ý nghĩa sâu xa ấy được chiếu sáng thêm bởi mầu nhiệm Nhập Thể, nhờ đó chính Thiên Chúa mang lấy xác phàm chúng ta, làm cho «xác thịt chúng ta cũng được nâng lên phẩm giá tuyệt vời»[25].
- Dù bám rễ sâu nơi thân xác, con người vượt lên thế giới vật chất nhờ linh hồn «ở đường viền giữa vĩnh cửu và thời gian»[26]. Khả năng vượt thoát của trí tuệ và tự chủ của ý chí tự do thuộc về linh hồn, nhờ đó con người «được thông phần ánh sáng của trí khôn Thiên Chúa»[27]. Tuy nhiên, tinh thần không vận hành tri thức bình thường tách rời thân xác[28]; vì thế, các năng lực trí tuệ là phần cốt thiết của nhân học “hiệp nhất thân–hồn”[29]. Những khía cạnh này sẽ được phát triển thêm dưới đây.
Tính tương quan
- Con người «do chính bản tính được hướng tới hiệp thông liên vị»[30]: biết nhau, trao hiến trong yêu thương, bước vào hiệp thông. Vì vậy, trí tuệ nhân loại không cô lập, nhưng triển nở trong tương quan, được hoàn bị trong đối thoại, cộng tác, tương thân. Chúng ta học với người khác, nhờ người khác.
- Căn tính hướng tương quan ấy được đặt nền sâu xa nơi mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, Đấng tự hiến muôn đời, tỏ lộ tình yêu trong sáng tạo và cứu chuộc[31]. Nhân vị được kêu gọi «chia sẻ sự sống Thiên Chúa trong hiểu biết và yêu mến»[32].
- Ơn gọi hiệp thông với Thiên Chúa liên kết thiết thân với hiệp thông tha nhân. Yêu mến Thiên Chúa không tách rời yêu mến người lân cận (x. 1Ga 4,20; Mt 22,37-39). Nhờ ân sủng tham dự sự sống Thiên Chúa, Kitô hữu trở nên người bắt chước sự trao ban dư tràn của Đức Kitô (x. 2Cr 9,8-11; Ep 5,1-2) theo lệnh truyền: «Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em» (Ga 13,34)[33]. Tình yêu – phục vụ, phản ánh nội tại đời sống tự hiến của Thiên Chúa – vượt khỏi lợi ích riêng để đáp trọn ơn gọi nhân linh (x. 1Ga 2,9). Cao trọng hơn tri thức phong phú là chăm sóc lẫn nhau; bởi «dù tôi hiểu biết mọi mầu nhiệm […], nhưng không có đức mến, tôi chẳng là gì» (1Cr 13,2).
Quan hệ với Chân lý
- Trí tuệ nhân loại tự nền tảng là «ân ban Thiên Chúa để nắm bắt Chân lý»[34]. Với hai mệnh diện intellectus–ratio, trí tuệ giúp con người tiếp cận những thực tại vượt quá kinh nghiệm giác quan, bởi «khát vọng chân lý thuộc chính bản tính con người»[35]. Vượt lằn ranh dữ kiện thực nghiệm, trí tuệ «có thể đạt tới thực tại khả tri với xác quyết đích thực»[36]. Dù chân lý chỉ hiểu biết phần nào, khao khát ấy thúc đẩy lý trí «vươn xa hơn, như bị chinh phục bởi khả năng vô tận trước mắt»[37]. Chân Lý tự thân vượt tầm trí khôn, nhưng nó vẫn mê hoặc con người[38], thôi thúc tìm kiếm «chân lý sâu xa hơn»[39].
- Sự hướng nội tại tới chân lý biểu lộ đặc biệt qua hiểu nghĩa và sáng tạo, những năng lực tiêu biểu con người[40], qua đó việc tìm kiếm diễn ra «cách xứng hợp phẩm giá nhân vị và bản tính xã hội của họ»[41]. Thêm vào đó, định hướng bền vững về chân lý thiết yếu để đức mến hiện thực và phổ quát[42].
- Việc truy cầu chân lý đạt đỉnh cao khi mở ra với những thực tại vượt thế giới thụ tạo. Nơi Thiên Chúa, mọi chân lý đạt ý nghĩa cao nhất[43]. Phó thác nơi Người là «một chọn lựa nền tảng, liên hệ tới toàn bộ con người»[44], nhờ đó con người trở nên trọn vẹn: trí năng và ý chí thực thi tối đa bản tính tinh thần, để hành vi tự do viên mãn[45].
Việc coi sóc thế giới
- Đức tin Kitô giáo tuyên xưng tạo dựng là hành vi tự do của Thiên Chúa Ba Ngôi, Đấng – theo thánh Bônaventura – «sáng tạo, không để tăng vinh mình, nhưng để tỏ lộ và thông ban vinh quang»[46]. Vì Thiên Chúa tạo dựng theo Khôn Ngoan (x. Kn 9,9; Gr 10,12), thế giới thấm nhuần trật tự nội tại phản chiếu ý định của Người (x. St 1; Đn 2,21-22; Is 45,18)[47]; trong đó, Người trao cho con người sứ mạng đặc biệt: canh tác và gìn giữ địa cầu[48].
- Được “Nhà Nghệ Sĩ” tối cao tạo tác, con người sống căn tính hình ảnh Thiên Chúa bằng việc “gìn giữ” và “canh tác” (x. St 2,15) thụ tạo, vận dụng trí tuệ và kỹ xảo để trợ giúp và khai triển vũ trụ theo hoạch định của Cha[49]. Như vậy, trí tuệ nhân loại phản chiếu Trí Tuệ thần linh đã dựng nên muôn vật (x. Ga 1)[50], liên lỉ nâng đỡ và dẫn chúng đến cùng đích nơi Người[51]. Con người còn được kêu gọi phát huy năng lực khoa học–kỹ thuật để tôn vinh Thiên Chúa (x. Hc 38,6). Do đó, trong liên hệ đúng đắn với thụ tạo, con người vừa cộng tác dẫn đưa vũ trụ tới mục tiêu Thiên Chúa ấn định[52], vừa – như thánh Bônaventura nói – được thế giới «giúp tâm trí từ từ tiến lên các bậc thang tới Nguyên lý tối cao là Thiên Chúa»[53].
Hiểu biết toàn diện về trí tuệ nhân loại
- Trong bối cảnh ấy, trí tuệ nhân loại hiện rõ như một năng lực gắn liền cách con người tham dự thực tại. Sự tham dự đích thực đòi bao quát trọn vẹn hữu thể: tinh thần, nhận thức, thân xác và tương quan.
- Mối bận tâm đối với thực tại biểu lộ đa dạng, vì mỗi cá nhân – độc đáo và phong phú[54] – tìm cách thấu hiểu thế giới, xây dựng quan hệ, giải quyết vấn đề, sáng tạo và mưu cầu hạnh phúc toàn diện nhờ hiệp lực các chiều kích trí tuệ[55]. Điều này liên hệ năng lực lô-gíc, ngôn ngữ, nhưng cũng bao gồm các hình thức tương tác khác. Người thợ thủ công «nhận ra trong vật chất vô tri một hình thái mà kẻ khác không thấy»[56]; các dân tộc bản địa gần gũi đất đai lại sở hữu cảm quan sâu sắc về thiên nhiên[57]; cũng thế, người bạn tìm được lời thích hợp hoặc người giỏi quản trị nhân sự minh họa dạng trí tuệ nảy sinh từ suy tư, đối thoại và quảng đại gặp gỡ[58]. Như Đức Phanxicô lưu ý, «thời đại AI không được quên rằng để cứu lấy con người, cần có thi ca và tình yêu»[59].
- Trọng tâm cái nhìn Kitô giáo về trí tuệ là hội nhập chân lý vào đời sống luân lý và thiêng liêng, hướng hành vi dưới ánh sáng chân – thiện – mỹ Thiên Chúa. Theo ý định Người, trí tuệ viên mãn bao gồm việc hưởng nếm điều chân–thiện–mỹ; vì thế, Paul Claudel nói: «trí tuệ vô nghĩa nếu không có hoan lạc»[60]. Dante, khi đạt tới Thiên Đàng cao nhất, cũng tuyên xưng niềm hoan lạc ấy trong «Luce intellettüal, piena d’amore…»[61].
- Vì vậy, trí tuệ không giản lược vào thu thập dữ kiện hay thuần năng lực hoàn tất tác vụ; nhưng đòi mở lòng trước những câu hỏi tối hậu và hướng về Chân – Thiện[62]. Là hình ảnh Thiên Chúa, trí tuệ vươn tới toàn thể hữu thể, vượt quá điều khả đo, nắm bắt ý nghĩa sâu xa. Với tín hữu, năng lực ấy bao hàm intellectus fidei – đào sâu lý trí các chân lý mạc khải[63]. Intelligentia chân thực được khuôn đúc bởi tình yêu Thiên Chúa «đã đổ tràn vào lòng chúng ta nhờ Thánh Thần» (Rm 5,5); vì thế, trí tuệ mang chiều kích chiêm niệm: mở ra vô vị lợi trước Chân – Thiện – Mỹ vượt ngoài mọi tiện ích.
Giới hạn của IA
- Soi chiếu những điều vừa trình bày, khác biệt giữa trí tuệ nhân loại và các hệ IA hiện nay trở nên rõ rệt. Dù là thành tựu kỹ thuật kỳ diệu bắt chước vài thao tác lý tính, IA chỉ hoạt động bằng thực thi nhiệm vụ, đạt mục tiêu, ra quyết định dựa trên dữ liệu định lượng và lô-gíc tính toán. Nhờ sức mạnh phân tích, IA nổi trội trong tích hợp dữ liệu đa ngành, mô hình hóa hệ phức tạp, thúc đẩy liên kết liên ngành – có thể hỗ trợ chuyên gia giải quyết vấn đề “đa góc độ”[64].
- Tuy nhiên, IA vẫn bị giới hạn trong lĩnh vực logic–toán, thiếu khả năng phát triển hữu cơ như trí tuệ người vốn lớn lên cùng tiến trình thể–lý–tâm. Các hệ tiên tiến có thể “học” qua machine learning, song khác căn bản với trưởng thành của trí tuệ nhân linh – vốn được định hình bởi kinh nghiệm thân xác: cảm giác, xúc cảm, tương tác xã hội, bối cảnh độc nhất của mỗi khoảnh khắc. IA, không thân xác, chỉ dựa suy luận tính toán trên tập dữ liệu do con người thu thập.
- Hệ quả là, dù IA mô phỏng một số mặt tư duy và xử lý công việc nhanh nhạy, khả năng tính toán chỉ là phần nhỏ của tiềm năng tâm trí. IA chưa thể tái tạo biện phân luân lý, thiết lập quan hệ xác thực. Trí tuệ người gắn với lịch sử hình thành đạo đức – tri thức cá vị, kết hợp chiều kích thể lý, xúc cảm, xã hội, luân lý, thiêng liêng. Thiếu chiều sâu này, cách tiếp cận chỉ dựa IA dễ khiến con người «đánh mất cảm thức toàn thể, mối liên hệ giữa sự vật, chân trời rộng»[65].
- Trí tuệ con người cốt yếu hiểu và dấn thân toàn diện vào thực tại, có những trực giác bất ngờ. IA thiếu giầu có của thân xác, tương quan, và tấm lòng khao khát chân–thiện, nên tuy có vẻ vô hạn, chẳng sánh được khả năng nhân linh. Từ bệnh tật, một vòng tay hòa giải, hay hoàng hôn bình dị, con người lĩnh hội khôn ngoan mới; không thiết bị xử lý dữ liệu nào đạt được điều ấy.
- Đồng nhất thái quá trí tuệ người với IA dẫn tới nguy cơ duy công năng, đánh giá người dựa vào công việc họ làm. Nhưng giá trị con người không lệ thuộc năng lực đặc thù hay thành công, mà ở phẩm giá cố hữu do được tạo theo hình ảnh Thiên Chúa[66]. Phẩm giá ấy không suy suyển ngay cả nơi thai nhi, bệnh nhân hôn mê hay cụ già đau yếu[67]. Đây là nền tảng nhân quyền và “quyền thần kinh” hiện được nêu cao, «điểm hội tụ quan trọng để tìm mẫu số chung»[68] – có thể làm kim chỉ nam luân lý cho phát triển và dùng IA.
- Chính vì thế, Đức Phanxicô cảnh báo, «việc dùng chữ “trí tuệ”» cho IA «dễ gây hiểu lầm»[69] và bỏ quên điều quý nhất nơi con người. IA không phải hình thức “trí tuệ” khác, mà là sản phẩm của trí tuệ[70].
IV. Vai trò của đạo đức trong việc định hướng phát triển và sử dụng IA
- Từ những suy tư trên, có thể hỏi: IA được hiểu thế nào trong kế hoạch Thiên Chúa? Hoạt động khoa học–kỹ thuật không trung tính: nó gắn với chiều kích nhân văn–văn hóa của trí tuệ[71].
- Được coi là hoa trái tiềm năng khắc ghi trong trí tuệ con người[72], nghiên cứu khoa học và kỹ xảo là phần của «sự cộng tác người nam – người nữ với Thiên Chúa trong việc hoàn thiện công trình hữu hình»[73]. Đồng thời, mọi thành tựu khoa học–kỹ thuật rốt cùng là hồng ân Thiên Chúa[74]; vì vậy con người phải sử dụng hướng về cùng đích cao cả mà Người ban[75].
- Chúng ta biết ơn vì công nghệ «đã chữa trị vô số tai ương từng giới hạn nhân loại»[76]. Tuy nhiên, không phải mọi phát minh đều là tiến bộ đích thực[77]. Hội Thánh phản đối đặc biệt những ứng dụng xâm phạm sự thánh thiêng của sự sống hay phẩm giá con người[78]. Mọi phát triển công nghệ phải hướng tới «công bình lớn hơn, huynh đệ sâu rộng hơn và trật tự xã hội nhân bản hơn» – giá trị này «cao hơn tiến bộ kỹ thuật»[79]. Quan ngại luân lý không chỉ của Giáo Hội; nhiều nhà khoa học, kỹ thuật, hiệp hội nghề nghiệp kêu gọi đạo đức định hướng tiến bộ.
- Đáp lại, cần nhấn mạnh trách nhiệm luân lý dựa trên phẩm giá và ơn gọi con người, cả trong vấn đề IA. Giữa máy móc và con người, chỉ con người là tác nhân luân lý thật, tự do quyết định và gánh hậu quả[81]; chỉ con người gắn với chân lý – thiện hảo, được lương tâm kêu gọi «yêu mến thiện, tránh điều ác»[82]; chỉ con người đủ tự nhận thức để lắng nghe và theo tiếng lương tâm, dùng thận trọng tìm điều thiện có thể[84]. Đây cũng là hành vi trí tuệ đích thực.
- Giống mọi sản phẩm trí khôn, IA có thể hướng thiện hay ác[85]. Khi dùng trong tôn trọng phẩm giá và thăng tiến công ích, IA hỗ trợ ơn gọi nhân linh. Song bóng tối tội lỗi luôn hiện diện: giá trị đạo đức công nghệ tùy thuộc mục đích và cách con người vận dụng.
- Không chỉ mục đích, nhưng cả phương tiện và tầm nhìn nhân học gắn trong hệ thống cũng phải được lượng giá. Sản phẩm kỹ thuật phản chiếu thế giới quan của nhà phát triển, chủ sở hữu, người dùng và nhà quản trị[86], và với quyền lực của nó «định hình thế giới và đòi hỏi lương tâm»[87]. Một số công nghệ có thể củng cố quyền lực trái với viễn tượng nhân vị đúng đắn.
- Vì vậy, mục tiêu, phương tiện, tầm nhìn của mỗi ứng dụng IA phải được thẩm định để bảo đảm tôn trọng phẩm giá và thăng tiến ích chung[88]. Như Đức Phanxicô dạy, «phẩm giá bẩm sinh của mỗi người» là «tiêu chí then chốt» đánh giá công nghệ mới[89]. Trí tuệ con người giữ vai trò thiết yếu không chỉ thiết kế sản phẩm mà còn định hướng việc sử dụng[90]. Trách nhiệm này thuộc mọi cấp xã hội theo nguyên tắc bổ trợ và các nguyên tắc khác của Học thuyết Xã hội Công giáo.
Hỗ trợ tự do và quyết định nhân linh
- Cam kết để IA luôn bảo vệ và thăng tiến phẩm giá con người là tiêu chuẩn biện phân cho nhà phát triển, chủ sở hữu, vận hành, quản lý lẫn người dùng trong mọi cấp độ ứng dụng.
- Trước hết phải xác định trách nhiệm luân lý. Vì chỉ tác nhân nhân linh sở hữu nhân quả đạo đức, cần minh định ai chịu trách nhiệm với quy trình IA, nhất là hệ thống học hỏi, tự sửa. Phương pháp deep learning khiến việc truy vết tiến trình khó khăn, gây trở ngại gán trách nhiệm khi kết quả bất lợi. Do vậy, người ra quyết định dựa IA phải chịu trách nhiệm và có thể giải trình ở mọi giai đoạn[91].
- Kế đến phải xác lập mục tiêu giao cho hệ IA. Dù dùng học tập tự chủ, cuối cùng IA theo đuổi mục tiêu con người gán và vận hành trong khuôn lập trình. Khi mô hình càng độc lập học, khả năng kiểm soát suy giảm, đặt vấn đề đảm bảo hướng thiện cho hệ thống.
- Trách nhiệm không chỉ của nhà phát triển mà cả người dùng. Như Đức Giáo hoàng nói, «máy chọn về kỹ thuật, còn con người thực sự quyết định»[92]. Người dùng giao phó quyền lực cho IA vẫn là chủ thể chịu hậu quả. Do đó, thuật toán phải đáng tin, an toàn, minh bạch, giảm thiên kiến[93]; khung pháp lý phải buộc pháp nhân giải trình mọi hệ quả, kèm bảo đảm minh bạch – bảo mật – trách nhiệm[94]. Người dùng cũng phải tránh lệ thuộc quá mức vào IA.
- Giáo huấn xã hội của Hội Thánh hướng dẫn sử dụng IA bảo tồn khả năng hành động nhân linh. Đức công bằng quan tâm thúc đẩy động lực xã hội đúng đắn, bảo vệ an ninh quốc tế, cổ võ hòa bình. Với đức thận trọng, cá nhân và cộng đồng phân định dùng IA vì lợi ích nhân loại, tránh ứng dụng hạ thấp phẩm giá hay gây hại trái đất. “Trách nhiệm” phải được hiểu như chăm sóc tha nhân, chứ không chỉ «báo cáo việc đã làm»[95].
- Do đó, IA – như mọi công nghệ – có thể góp phần vào đáp trả có ý thức và trách nhiệm trước ơn gọi thiện hảo của nhân loại. Tuy nhiên, như đã bàn, IA phải được trí tuệ nhân loại điều hướng để phù hợp ơn gọi ấy, bảo vệ phẩm giá nhân vị. Nhớ lại lời Vatican II: «trật tự xã hội và tiến bộ của nó phải luôn ưu tiên lợi ích con người»[96]. Vì thế, như Đức Phanxicô khẳng định, việc sử dụng IA phải song hành với «một nền đạo đức đặt trên cái nhìn công ích, đạo đức tự do – trách nhiệm – huynh đệ, thúc đẩy phát triển trọn vẹn con người trong tương quan với tha nhân và thụ tạo»[97].
V. Những vấn đề cụ thể
- Trong khung nhìn chung nói trên, các nhận định dưới đây minh họa cách những lập luận đã trình bày có thể giúp định hướng trong các tình huống cụ thể, phù hợp với «khôn ngoan của con tim» mà Đức Thánh Cha Phanxicô đề xuất [98]. Dù không mang tính toàn diện, bản đề nghị này được gửi đến như một đóng góp cho cuộc đối thoại hầu xác định những phương thế nhờ đó trí tuệ nhân tạo (AI) có thể nâng đỡ phẩm giá con người và thăng tiến thiện ích chung [99].
AI và đời sống xã hội
- Như Đức Thánh Cha Phanxicô đã khẳng định, «phẩm giá nội tại của mỗi con người và tình huynh đệ liên kết chúng ta như thành viên của cùng một gia đình nhân loại phải là nền tảng cho việc phát triển các công nghệ mới và trở thành tiêu chuẩn bất khả tranh để thẩm định chúng trước khi đưa vào sử dụng» [100].
- Từ viễn tượng ấy, AI có thể «mang lại các đổi mới quan trọng trong nông nghiệp, giáo dục, văn hóa, cải thiện mức sống của cả các quốc gia và dân tộc, gia tăng tình huynh đệ nhân loại và tình thân xã hội», do đó «được sử dụng để thúc đẩy phát triển con người toàn diện» [101]. AI cũng có thể giúp các tổ chức nhận diện những người đang túng thiếu, đẩy lùi các hình thức kỳ thị và loại trừ. Bằng những cách tương tự, AI có thể góp phần vào sự phát triển của con người và thiện ích chung [102].
- Tuy nhiên, song song với những tiềm năng thiện hảo, AI cũng có thể cản trở hoặc thậm chí chống lại phát triển con người và thiện ích chung. Đức Phanxicô nhận xét rằng «các dữ liệu hiện có dường như cho thấy các công nghệ kỹ thuật số đã góp phần gia tăng bất bình đẳng trong thế giới. Không chỉ là chênh lệch về của cải vật chất – vốn đã quan trọng – mà còn về khả năng tiếp cận ảnh hưởng chính trị và xã hội» [103]. AI có nguy cơ kéo dài tình trạng gạt ra bên lề, tạo nên hình thức nghèo mới, mở rộng «khoảng cách số» và làm trầm trọng thêm bất công xã hội [104].
- Hơn nữa, việc quyền lực đối với các ứng dụng AI chủ chốt hiện tập trung trong tay một số ít tập đoàn hùng mạnh đặt ra những lo âu luân lý nghiêm trọng. Vấn đề càng trầm trọng do bản chất nội tại của các hệ AI, nơi không cá nhân nào có thể giám sát trọn vẹn những kho dữ liệu khổng lồ và phức tạp được dùng để tính toán. Việc thiếu trách nhiệm giải trình (accountability) minh định này làm dấy lên nguy cơ AI bị thao túng vì lợi ích cá nhân hay doanh nghiệp, hoặc định hướng dư luận phục vụ một nhóm. Các thực thể ấy, bị chi phối bởi động cơ tư lợi, có khả năng áp dụng «những hình thức kiểm soát tinh vi và xâm lấn, tạo ra cơ chế thao túng lương tâm và tiến trình dân chủ» [105].
- Ngoài ra, AI có thể bị khai thác để cổ xúy điều Đức Phanxicô gọi là «mô hình kỹ trị», vốn có xu hướng giải quyết mọi vấn đề thế giới chỉ nhờ phương tiện kỹ thuật [106]. Khi chạy theo mô hình ấy, phẩm giá con người và tình huynh đệ thường bị gạt sang bên để nhường chỗ cho hiệu năng, «như thể thực tại, điều thiện và chân lý tự nở hoa từ chính sức mạnh của công nghệ và kinh tế» [107]. Trái lại, phẩm giá nhân vị và thiện ích chung không bao giờ được hy sinh nhân danh hiệu quả [108]; vì thế «những phát triển kỹ thuật không cải thiện chất lượng sống của toàn thể nhân loại, nhưng lại gia tăng bất bình đẳng và xung đột, không bao giờ có thể được coi là tiến bộ đích thực» [109]. AI phải được đặt «phục vụ một mô hình phát triển khác, lành mạnh hơn, nhân bản hơn, xã hội hơn và toàn diện hơn» [110].
- Để đạt mục tiêu ấy, cần suy tư sâu xa hơn về mối tương quan giữa tự chủ và trách nhiệm, bởi tự chủ lớn hơn đòi hỏi trách nhiệm cao hơn của mỗi cá nhân trong mọi khía cạnh đời sống chung. Với Kitô hữu, nền tảng của trách nhiệm này là nhận thức rằng mọi khả năng nhân linh, kể cả tự chủ, đều phát xuất từ Thiên Chúa và được ban để phục vụ tha nhân [111]. Do vậy, thay vì chỉ theo đuổi mục tiêu kinh tế hay kỹ thuật, AI phải được sử dụng cho «thiện ích chung của toàn gia đình nhân loại», tức «tập hợp các điều kiện xã hội cho phép cả cộng đoàn lẫn từng thành viên đạt tới sự hoàn thiện của mình cách sung mãn và dễ dàng hơn» [112].
AI và các mối tương quan nhân linh
- Công đồng Vatican II khẳng định con người «do bản tính sâu xa là hữu thể xã hội, và nếu không có tương quan với kẻ khác, họ không thể sống cũng chẳng thể phát huy các năng khiếu của mình» [113]. Điều này cho thấy đời sống xã hội thuộc bản tính và ơn gọi nhân vị [114]. Là hữu thể xã hội, con người tìm kiếm những mối quan hệ hàm chứa sự trao đổi hỗ tương và việc truy tìm chân lý, nhờ đó «để giúp nhau trong nghiên cứu, con người thông tri cho nhau chân lý mình đã khám phá hay nghĩ mình đã khám phá» [115].
- Cuộc truy tìm ấy, cùng những khía cạnh khác của truyền thông nhân loại, giả thiết gặp gỡ và trao đổi giữa các nhân vị mang dấu ấn lịch sử, tư tưởng, xác tín và tương quan riêng. Không thể quên rằng trí tuệ con người là thực tại đa chiều, đa tạp và phức hợp: cá vị và xã hội; lý tính và xúc cảm; khái niệm và biểu tượng. Đức Phanxicô nhấn mạnh: «Chúng ta có thể cùng nhau tìm kiếm chân lý qua đối thoại, trao đổi bình tĩnh hay tranh luận sôi nổi… Vấn đề là con đường huynh đệ – cục bộ cũng như toàn cầu – chỉ những tâm hồn tự do và sẵn sàng gặp gỡ thực sự mới đi được» [116].
- Từ đó, có thể xem xét thách đố mà AI đặt ra cho tương quan nhân linh. Tựa các phương tiện kỹ thuật khác, AI có khả năng tăng cường kết nối trong gia đình nhân loại. Tuy nhiên, AI cũng có thể cản trở cuộc gặp gỡ đích thực với thực tại và cuối cùng đưa con người tới «sự bất mãn sâu xa và u sầu trong các quan hệ, hoặc cô lập gây hại» [117]. Những tương quan chân chính đòi nghệ thuật hiện diện, biết sẻ chia đau khổ, nhu cầu và niềm vui của người khác [118]. Vì trí tuệ con người triển nở nhờ các lộ trình liên vị và nhập thể, nên giao tiếp chân thành, tự phát là thiết yếu để gắn bó toàn diện với thực tại.
- Chính vì «khôn ngoan thực sự đòi gặp gỡ thực tại» [119], tiến bộ AI đặt ra một thách thức mới: do AI có thể bắt chước hiệu quả công trình trí tuệ con người, ta không còn chắc đang tương tác với người hay máy. Dù AI “tạo sinh” có thể sản xuất văn bản, diễn văn, hình ảnh và những đầu ra khác vốn do con người làm ra, nó vẫn chỉ là công cụ, không phải nhân vị [120]. Ranh giới này thường bị xóa mờ bởi ngôn ngữ nhân hóa (anthropomorphism) trong ngành, khiến lẫn lộn giữa nhân linh và nhân tạo.
- Việc nhân hóa AI đặc biệt nguy hiểm đối với trẻ em, vốn dễ hình thành lối tương tác xem quan hệ nhân linh như công cụ – giống cách dùng chatbot. Kiểu tiếp cận ấy có thể khiến các em coi thầy cô chỉ là kẻ cung cấp thông tin, chứ không phải người dẫn dắt và nâng đỡ sự trưởng thành trí thức – luân lý của các em. Những tương giao đích thực, đặt nền trên đồng cảm và cam kết thiện ích của tha nhân, là thiết yếu và không thể thay thế cho sự phát triển viên mãn của con người.
- Trong bối cảnh này, cần nhấn mạnh – dẫu thường dùng thuật ngữ nhân hóa – rằng không có ứng dụng AI nào thật sự cảm thông được. Cảm xúc không thể giản lược vào nét mặt hay câu chữ sinh ra để đáp ứng người dùng; trái lại, cảm xúc gắn với cách nhân vị toàn diện liên hệ thế giới và đời mình, với thân xác giữ vai trò trung tâm. Đồng cảm đòi khả năng lắng nghe, nhận ra tính độc đáo bất khả thay thế của người khác, đón nhận sự khác biệt của họ và hiểu ý nghĩa thinh lặng của họ [121]. Khác với lãnh vực phân tích – nơi AI xuất sắc – đồng cảm chân chính thuộc phạm vi liên vị: cảm nhận và chia sẻ kinh nghiệm của tha nhân, đồng thời vẫn giữ phân biệt các chủ thể [122]. Dẫu AI có thể giả lập phản hồi cảm thông, bản chất nặng tính cá vị và tương quan của đồng cảm không thể được hệ thống nhân tạo tái tạo [123].
- Do đó, phải tránh mọi hình thức trình bày sai lạc AI như một nhân vị; khai thác cách hiểu sai ấy vì mục tiêu lừa đảo là vi phạm luân lý nghiêm trọng, làm xói mòn niềm tin xã hội. Tương tự, việc dùng AI để đánh lừa trong giáo dục hay quan hệ nhân linh – kể cả lĩnh vực tính dục – là phi luân, đòi cảnh giác nghiêm ngặt hầu phòng ngừa tổn hại, duy trì minh bạch và bảo đảm phẩm giá của mọi người [124].
- Trong một thế giới ngày càng cá nhân chủ nghĩa, có người tìm đến AI để mong có tương quan sâu sắc, bầu bạn hay gắn bó tình cảm. Tuy thừa nhận con người được dựng nên cho quan hệ đích thực, phải khẳng định rằng AI chỉ có thể mô phỏng. Những tương quan với tha nhân cấu thành phương cách cốt yếu để nhân vị lớn lên và trở thành điều mình được kêu gọi. Vì thế, nếu AI được dùng để thúc đẩy tiếp xúc chân thành giữa con người, nó có thể đóng góp tích cực cho sự thành tựu viên mãn của nhân vị; ngược lại, nếu thay thế quan hệ ấy – kể cả quan hệ với Thiên Chúa – bằng giao tiếp kỹ thuật, nguy cơ là biến liên vị đích thực thành bản sao không sinh khí (x. Tv 160,20; Rm 1,22-23). Thay vì rút lui vào thế giới ảo, chúng ta được mời gọi hiện diện tích cực giữa đời, đồng nhất với người nghèo khổ, an ủi kẻ đau buồn và xây đắp những mối dây hiệp thông với mọi người.
IA, kinh tế và lao động
- Nhờ tính đa ngành, trí tuệ nhân tạo (IA) ngày càng được ứng dụng trong các hệ thống kinh tế-tài chính. Hiện nay, ngoài lĩnh vực công nghệ, đầu tư mạnh mẽ nhất xuất hiện trong các ngành năng lượng, tài chính và truyền thông, đặc biệt nơi các mảng marketing – bán hàng, hậu cần, đổi mới kỹ thuật, tuân thủ (compliance) và quản trị rủi ro. Việc triển khai cho thấy tính hai mặt của IA: đem lại cơ hội to lớn nhưng cũng ẩn chứa rủi ro sâu sắc. Rủi ro đầu tiên xuất phát từ khả năng, do cung ứng tập trung trong tay vài doanh nghiệp, chính các tập đoàn ấy sẽ là những kẻ duy nhất hưởng lợi từ giá trị IA tạo ra, thay vì chính các công ty ứng dụng IA.
- Trong lĩnh vực kinh tế-tài chính còn có những khía cạnh rộng hơn mà IA có thể tác động đáng kể, chủ yếu liên quan tương tác giữa thực tại cụ thể và thế giới kỹ thuật số. Điểm đầu cần lưu ý là sự đồng tồn tại của các định chế kinh tế-tài chính trình bày dưới nhiều hình thức khác nhau trong một bối cảnh nhất định. Đây là yếu tố nên khuyến khích vì có thể mang lại lợi ích cho nền kinh tế thực, thúc đẩy phát triển và ổn định, nhất là khi khủng hoảng. Tuy nhiên cần nhấn mạnh: các thực tại số, vì không bị ràng buộc không gian, có xu hướng đồng nhất và phi nhân hơn so với một cộng đoàn gắn với địa điểm cụ thể và lịch sử cụ thể – nơi có tiến trình chung, các giá trị và hy vọng được chia sẻ, nhưng cũng có bất đồng tất yếu. Chính sự đa dạng ấy là nguồn lực không thể phủ nhận cho đời sống kinh tế của cộng đồng. Giao khoán hoàn toàn kinh tế-tài chính cho công nghệ số đồng nghĩa với việc giảm thiểu sự phong phú ấy, khiến nhiều giải pháp kinh tế vốn khả thi nhờ đối thoại tự nhiên giữa các bên trở nên bất khả trong một thế giới bị chi phối bởi quy trình và “gần gũi ảo”.
- Một lĩnh vực khác chịu ảnh hưởng sâu của IA là thế giới lao động. Giống nhiều nơi khác, IA đang gây chuyển biến mạnh mẽ trong nhiều nghề nghiệp, với tác động đa chiều. Một mặt, IA có tiềm năng nâng cao tay nghề và năng suất, mở ra cơ hội việc làm mới, cho phép công nhân tập trung vào nhiệm vụ sáng tạo hơn, mở rộng chân trời tính sáng tạo và óc phát minh.
- Tuy nhiên, trong khi IA hứa hẹn thúc đẩy năng suất bằng cách gánh vác công việc thường nhật, người lao động thường bị buộc phải thích ứng với tốc độ và yêu cầu của máy móc, thay vì máy được thiết kế để hỗ trợ con người. Trái ngược với lợi ích IA được quảng bá, cách tiếp cận hiện thời có thể nghịch lý làm mất giá trị kỹ năng, đặt công nhân dưới hệ thống giám sát tự động và giam họ vào nhiệm vụ cứng nhắc lặp đi lặp lại. Nhu cầu bắt kịp nhịp công nghệ có nguy cơ bào mòn cảm thức chủ động và đè nén khả năng sáng tạo mà họ được mời gọi dốc vào công việc [125].
- IA đang xoá bỏ sự cần thiết của một số công việc từng do con người đảm nhiệm. Nếu IA được dùng để thay chứ không phải để hỗ trợ lao động con người, sẽ có «nguy cơ lớn tạo ưu thế không cân xứng cho thiểu số, khiến đa số nghèo đi» [126]. Thêm nữa, khi IA mạnh hơn, công việc có thể mất giá trị trong hệ thống kinh tế – hậu quả lô-gíc của mô hình kỹ trị: thế giới nơi nhân loại bị lệ thuộc vào hiệu năng, và cuối cùng chi phí con người phải bị cắt giảm. Nhưng mạng sống con người quý giá tự thân, vượt mọi lợi nhuận. Đức Phanxicô nhận định: hậu quả của mô hình ấy, hôm nay «xem ra không còn ý nghĩa đầu tư cho người tụt lại, người yếu, kém may mắn» [127]; và Ngài kết luận: «chúng ta không thể để một công cụ mạnh và thiết yếu như IA củng cố mô hình đó; trái lại, phải biến IA thành thành luỹ chống lại sự bành trướng của nó» [128].
- Do đó, luôn phải nhớ rằng «trong việc sắp xếp sự vật, phải phù hợp với trật tự con người, chứ không ngược lại» [129]. Vì thế, lao động phải phục vụ không chỉ lợi nhuận mà trước hết con người – con người được xét cách toàn diện, nghĩa là tính đến trật tự nhu cầu vật chất và đòi hỏi đời sống trí thức, luân lý, thiêng liêng của họ [130]. Hội Thánh nhìn nhận lao động «không chỉ […] là phương tiện mưu sinh», nhưng còn là «chiều kích không thể thiếu của đời sống xã hội», là **phương thế trưởng thành bản thân, kiến tạo tương quan lành mạnh, biểu lộ chính mình, chia sẻ ân sủng, cảm nghiệm trách nhiệm chung trong việc cải thiện thế giới và, rốt cuộc, sống trong tư cách một dân tộc» [131].
- Bởi lao động «là phần của ý nghĩa cuộc đời trên đất này, con đường trưởng thành, phát triển và hoàn thành bản thân», «không nên cứ tìm cách thay thế lao động con người bằng tiến bộ kỹ thuật: làm thế, nhân loại tự gây hại» [132]. Vì thế phải nỗ lực thăng tiến lao động. Trong viễn tượng ấy, IA phải hỗ trợ chứ không thay thế phán đoán con người, và không bao giờ làm giảm tính sáng tạo, hay biến người lao động thành “bánh răng máy”. Do đó «tôn trọng phẩm giá người lao động, tầm quan trọng của việc làm đối với kinh tế gia đình và xã hội, bảo đảm an toàn nghề nghiệp và công bằng tiền lương phải là ưu tiên cao của cộng đồng quốc tế khi công nghệ này càng thâm nhập nơi làm việc» [133].
IA và y tế
- Là những người chia sẻ công trình chữa lành của Thiên Chúa, nhân viên y tế được kêu gọi và chịu trách nhiệm trở thành «người canh giữ – phục vụ sự sống con người» [134]. Vì thế, nghề y mang «chiều kích đạo đức nội tại và bất khả thiếu», được thừa nhận trong Lời thề Hippocrates, vốn đòi bác sĩ và nhân viên y tế cam kết «tuyệt đối tôn trọng sự sống và tính thánh thiêng của nó» [135]. Theo gương Người Samari nhân hậu, họ phải là những người «không để xã hội loại trừ lên ngôi, nhưng đến gần, nâng dậy và phục hồi người ngã quỵ, hầu ích chung được thực hiện» [136].
- Với tầm nhìn ấy, IA có tiềm lực lớn trong nhiều ứng dụng y khoa: hỗ trợ chẩn đoán, tạo thuận lợi tương tác bệnh nhân – nhân viên y tế, cung cấp phác đồ mới, mở rộng tiếp cận dịch vụ chất lượng cho người đang cô lập hay bên lề. Qua đó, công nghệ có thể gia tăng sự gần gũi đầy cảm thương và trìu mến [137] của nhân viên y tế đối với người đau yếu.
- Tuy nhiên, nếu IA không được dùng để cải thiện mà để thay thế hoàn toàn mối tương quan giữa bệnh nhân và nhân viên y tế – để bệnh nhân tương tác với máy thay vì con người – thì một cấu trúc tương quan nhân linh hết sức quan trọng sẽ bị thu hẹp thành hệ thống tập trung, vô vị và bất bình đẳng. Thay vì khuyến khích liên đới, các ứng dụng ấy có nguy cơ gia tăng cô đơn vốn gắn với bệnh tật, nhất là trong nền văn hóa nơi «con người không còn được coi là giá trị tối thượng cần tôn trọng và bảo vệ» [138]. Cách sử dụng đó không phù hợp với phẩm giá nhân vị và tinh thần liên đới với người đau khổ.
- Trách nhiệm vì lợi ích bệnh nhân cùng các quyết định liên hệ tới sinh mạng họ là trung tâm nghề y. Trách nhiệm ấy đòi nhân viên y tế vận dụng trọn vẹn năng lực và trí tuệ để chọn lựa thận trọng và đạo đức vì người được giao phó, luôn tôn trọng phẩm giá bất khả xâm phạm của bệnh nhân và nguyên tắc đồng thuận thông tin. Vì thế, các quyết định điều trị và trách nhiệm kèm theo phải luôn thuộc về con người, không được giao phó cho IA [139].
- Hơn nữa, dùng IA để định đoạt ai được chữa trị chủ yếu dựa trên tiêu chí kinh tế hay hiệu năng là trường hợp điển hình của mô hình kỹ trị cần phải bác bỏ [140]. Quả vậy, «tối ưu hóa nguồn lực» nghĩa là sử dụng chúng một cách luân lý và liên đới, chứ không phải hy sinh người yếu [141]; chưa kể, trong lĩnh vực này, các công cụ ấy dễ thiên lệch và kỳ thị: sai lầm hệ thống có thể lan rộng, gây bất công không chỉ từng trường hợp mà còn tạo «hiệu ứng domino» bất bình đẳng xã hội [142].
- Việc tích hợp IA vào y tế còn có nguy cơ khuếch đại bất công hiện có trong tiếp cận chăm sóc. Khi y tế chuyển mạnh sang phòng ngừa và mô hình lối sống, giải pháp hướng dẫn bởi IA có thể vô tình ưu ái nhóm giàu – vốn đã thuận lợi về nguồn lực và dinh dưỡng. Xu hướng ấy củng cố mô hình “y học cho người giàu”, nơi người có tiền thụ hưởng công cụ phòng ngừa cao cấp và thông tin cá nhân hóa, còn người khác khó tiếp cận dịch vụ căn bản. Do đó, cần khuôn khổ quản trị công bằng để bảo đảm IA trong y tế không làm trầm trọng thêm bất bình đẳng, mà phục vụ thiện ích chung.
IA và giáo dục
- Lời dạy của Công đồng Vatican II vẫn nguyên giá trị: «Giáo dục chân chính phải thăng tiến việc đào tạo nhân vị, hướng tới cùng đích tối hậu và lợi ích của các nhóm mà con người là thành viên» [143]. Do đó, giáo dục «không bao giờ chỉ là truyền đạt kiến thức – kỹ năng, nhưng nhằm đào luyện toàn diện con người nơi mọi chiều kích (trí thức, văn hóa, thiêng liêng…)», kể cả đời sống cộng đoàn và các tương quan trong môi trường học thuật [144], tôn trọng bản tính và phẩm giá nhân vị.
- Cách tiếp cận ấy đòi cam kết đào luyện trí khôn, nhưng luôn như phần của phát triển toàn diện: «Chúng ta phải phá vỡ hình ảnh giáo dục như nhồi nhét đầu óc. Làm thế, chúng ta tạo ra rô-bốt, đầu to, chứ không phải con người. Giáo dục là mạo hiểm trong căng thẳng giữa đầu – tim – tay» [145].
- Trọng tâm công trình đào luyện nhân vị toàn diện là tương quan thiết yếu giữa giáo viên và sinh viên. Giáo viên không chỉ truyền đạt tri thức, mà còn là mẫu gương nhân bản, khơi gợi niềm vui khám phá [146]. Sự hiện diện của họ khích lệ sinh viên cả qua nội dung được dạy lẫn sự chăm sóc biểu lộ. Liên kết ấy xây dựng niềm tin, hiểu biết và ghi nhận phẩm giá độc đáo cùng tiềm năng mỗi cá nhân, khơi dậy ước muốn lớn lên. Hiện diện thể lý của giáo viên tạo động năng liên vị mà IA không thể tái tạo, động năng ấy đào sâu dấn thân và nuôi dưỡng phát triển toàn diện sinh viên.
- Trong khung cảnh này, IA vừa mở cơ hội vừa đặt thách thức. Nếu được dùng cách thận trọng, bên trong mối tương quan thật sự giáo viên – sinh viên và hướng tới mục tiêu chân chính của giáo dục, IA có thể trở thành nguồn lực quý giá: mở rộng tiếp cận học tập, cung cấp hỗ trợ cá nhân hóa và phản hồi tức thì. Những lợi ích này cải thiện trải nghiệm học tập, nhất là khi cần chú ý đặc biệt hoặc thiếu nguồn lực.
- Mặt khác, nhiệm vụ cốt yếu của giáo dục là đào luyện «trí khôn biết lý luận đúng trong mọi lãnh vực, hướng về chân lý và nắm bắt chân lý» [147], giúp «ngôn ngữ của cái đầu» tăng trưởng hài hòa với «ngôn ngữ của con tim» và «ngôn ngữ của đôi tay» [148]. Điều này càng thiết yếu trong kỷ nguyên kỹ thuật số, nơi «không chỉ là “sử dụng” công cụ truyền thông, nhưng sống trong một nền văn hóa số hóa sâu rộng, ảnh hưởng mạnh mẽ tới ý niệm thời gian – không gian, tới nhận thức bản thân, tha nhân và thế giới» [149]. Tuy nhiên, thay vì khuyến khích «trí thức uyên bác mang sức mạnh và duyên dáng vào mọi công việc» [150], việc lạm dụng IA trong giáo dục có thể dẫn tới phụ thuộc công nghệ, làm suy giảm khả năng tự thân thực hiện một số hoạt động và gia tăng lệ thuộc màn hình [151].
- Hơn nữa, trong khi một số hệ IA được thiết kế nhằm giúp phát triển tư duy phản biện và giải quyết vấn đề, nhiều chương trình khác chỉ đơn giản cung cấp đáp án thay vì khuyến khích sinh viên tự tìm hoặc tự soạn văn bản [152]. Thay vì rèn luyện giới trẻ tích trữ thông tin và phản ứng nhanh, giáo dục phải «thúc đẩy tự do có trách nhiệm, biết chọn lựa với khôn ngoan ở những ngã rẽ» [153]. Vì thế, «giáo dục cách sử dụng IA trước hết phải hướng tới thăng tiến tư duy phê phán. Cần giúp người dùng – nhất là giới trẻ – phân định trong việc sử dụng dữ liệu và nội dung thu thập trên mạng hoặc do IA tạo ra. Trường học, đại học và hội đồng khoa học được mời gọi giúp sinh viên và chuyên gia tiếp thu khía cạnh xã hội – luân lý của việc phát triển và sử dụng công nghệ» [154].
- Thánh Gioan Phaolô II nhắc nhở: «Trong thế giới hôm nay, nơi khoa học – kỹ thuật tiến triển cực nhanh, sứ mạng của đại học Công giáo mang tầm quan trọng và cấp bách ngày càng lớn» [155]. Cách riêng, các Đại học Công giáo được kêu gọi trở nên “phòng thí nghiệm hy vọng” lớn lao trên ngã tư lịch sử này: theo tinh thần liên – xuyên ngành, họ phải «với khôn ngoan và sáng tạo» [156] nghiên cứu sâu về hiện tượng; làm nổi bật tiềm năng lành mạnh trong các lĩnh vực khoa học – thực tại; luôn hướng chúng tới ứng dụng có phẩm chất luân lý, rõ ràng phục vụ gắn kết xã hội và công ích; mở ra biên cương mới cho đối thoại Đức Tin – Lý Trí.
- Ngoài ra, đã rõ rằng chương trình IA hiện nay có thể cung cấp thông tin sai lệch hoặc ngụy tạo, khiến sinh viên tin vào nội dung không chính xác. «Như thế, không chỉ có nguy cơ hợp thức hóa tin giả và củng cố lợi thế cho văn hóa thống trị, mà còn phá hoại **quá trình giáo dục ngay từ đầu» [157]. Theo thời gian, ranh giới giữa việc sử dụng thích hợp và lạm dụng công nghệ, cả trong giảng dạy lẫn nghiên cứu, sẽ sáng tỏ hơn. Tuy nhiên, nguyên tắc chỉ đạo quyết liệt là việc sử dụng IA phải luôn minh bạch, không mập mờ.
IA, thông tin sai lệch, deepfake và lạm dụng
- IA hỗ trợ phẩm giá con người khi được dùng làm công cụ giúp hiểu các sự kiện phức tạp hoặc hướng dẫn tới những nguồn tư liệu xác thực trong việc tìm kiếm chân lý [158].
- Tuy nhiên, tồn tại nguy cơ nghiêm trọng là IA tạo ra nội dung bị thao túng và thông tin giả; do rất khó phân biệt với dữ kiện thật, chúng dễ dàng gây ngộ nhận. Điều này có thể xảy ra ngoài ý muốn, như hiện tượng “ảo giác” của IA (hallucination), khi một hệ thống sinh tạo (generative) sản sinh những nội dung dường như phản ánh thực tại nhưng không chân thật. Dù khó kiểm soát vì việc tạo thông tin mô phỏng sản phẩm nhân linh là đặc tính chính của IA, rủi ro này vẫn phải được quản trị. Hậu quả của các sai lệch và tin giả ấy có thể rất nghiêm trọng. Do đó, mọi cá nhân phát triển và sử dụng IA phải cam kết tính chân thực và độ chính xác của thông tin do hệ thống tạo ra và phổ biến.
- Bên cạnh tiềm năng sinh ra nội dung hư cấu, còn có mối đe dọa đáng lo hơn: IA bị cố tình khai thác cho mục tiêu thao túng. Thí dụ, khi cá nhân hay tổ chức chủ ý tạo và lan truyền thông tin—như hình ảnh, video, âm thanh deepfake—để lừa gạt hay gây hại. Deepfake là sự mô tả sai lệch về một người, đã bị sửa đổi hoặc tạo bởi thuật toán IA. Nguy hiểm của deepfake lộ rõ khi nhằm tấn công hay làm tổn hại ai đó: tuy hình ảnh hay video là giả, thiệt hại gây ra hoàn toàn thật, để lại «vết sẹo sâu trong lòng nạn nhân», làm họ «bị xúc phạm trong phẩm giá nhân linh» [159].
- Tổng quát hơn, khi bóp méo «mối liên hệ với tha nhân và thực tại» [160], sản phẩm nghe nhìn giả tạo do IA tạo ra có thể dần dần xói mòn nền tảng xã hội. Điều này đòi hỏi quy định nghiêm ngặt, vì thông tin sai lệch—đặc biệt qua truyền thông được điều khiển hoặc ảnh hưởng bởi IA—có thể lan truyền ngoài ý định, nuôi dưỡng chia rẽ chính trị và bất mãn xã hội. Khi xã hội dửng dưng với chân lý, các nhóm khác nhau dựng nên phiên bản “sự kiện” của riêng mình và các «mối quan hệ—tương quan» [161] nền tảng đời sống cộng đồng suy yếu. Deepfake khiến người ta nghi ngờ mọi sự; nội dung giả làm suy giảm niềm tin vào điều mắt thấy tai nghe, khiến cực đoan và xung đột gia tăng. Lừa dối lan rộng như thế không phải vấn đề thứ yếu: nó tấn công trái tim nhân loại, phá vỡ niềm tin căn bản nâng đỡ xã hội [162].
- Việc chống lại gian trá do IA thúc đẩy không chỉ là công việc của chuyên gia, nhưng đòi hỏi nỗ lực của mọi người thiện chí. «Nếu công nghệ phải phục vụ phẩm giá con người và thúc đẩy hòa bình, cộng đồng nhân loại phải chủ động đối mặt các xu hướng ấy trong tôn trọng phẩm giá và thăng tiến thiện ích» [163]. Những ai sản xuất, chia sẻ nội dung do IA tạo phải luôn kiểm chứng tính xác thực và, trong mọi trường hợp, phải «tránh phổ biến lời nói, hình ảnh hạ thấp con người, loại trừ nội dung nuôi dưỡng hận thù, bất khoan dung, làm biến dạng vẻ đẹp và sự thân mật của tính dục, bóc lột kẻ yếu thế» [164]. Điều đó đòi hỏi thận trọng liên lỉ và biện phân kỹ lưỡng của mỗi người dùng đối với hoạt động trực tuyến của mình [165].
IA, quyền riêng tư và kiểm soát
- Con người vốn tương quan, nên dữ liệu mà mỗi người tạo ra trong môi trường số có thể được xem như biểu hiện khách quan của bản tính tương quan ấy. Dữ liệu không chỉ truyền tải thông tin, nhưng còn chứa tri thức cá vị và liên vị; trong bối cảnh số hóa ngày càng sâu, chúng có thể trở thành quyền lực trên cá nhân. Một số dữ liệu liên quan tới đời sống công khai, song có dữ liệu chạm tới đời sống nội tâm, thậm chí lương tâm. Vì vậy, bí mật riêng tư giữ vai trò trung tâm trong việc bảo vệ biên cương đời sống nội tâm và bảo đảm tự do giao tiếp, biểu đạt, quyết định mà không bị giám sát bất xứng. Sự bảo vệ ấy gắn với tự do tôn giáo, bởi giám sát số có thể bị dùng để kiểm soát đời sống đức tin.
- Cần tiếp cận vấn đề riêng tư xuất phát từ mối bận tâm đối với tự do chính đáng và phẩm giá bất khả nhượng của con người [166]. Công đồng Vatican II liệt kê quyền «bảo vệ đời tư» vào các quyền căn bản cần thiết «để sống thực sự xứng nhân phẩm», phải được mở rộng cho mọi người vì «phẩm giá cao cả» của họ [167]. Giáo Hội còn khẳng định quyền được tôn trọng đời tư trong bối cảnh quyền danh dự, toàn vẹn thể lý—tinh thần và miễn trừ xâm phạm, tất cả đều liên hệ tới sự tôn trọng phẩm giá nội tại của con người [168–169].
- Nhờ IA, năng lực xử lý và phân tích dữ liệu cho phép phát hiện mẫu hành vi—tư tưởng chỉ từ lượng thông tin rất nhỏ, do đó càng cần giữ bí mật dữ liệu để bảo vệ phẩm giá và bản tính tương quan của nhân vị. Đức Phanxicô nhận xét: «Trong khi thái độ khép kín, bất khoan dung gia tăng cô lập, các khoảng cách lại thu hẹp tới mức quyền riêng tư biến mất. Mọi sự trở thành thứ trình diễn có thể bị soi mói, giám sát; đời sống bị phơi bày dưới kiểm soát thường trực» [170].
- Tuy có thể có cách sử dụng IA hợp pháp và phù hợp phẩm giá nhằm phục vụ thiện ích chung, song không thể biện minh việc dùng IA để kiểm soát nhằm bóc lột, hạn chế tự do cá nhân hay trục lợi cho thiểu số. Nguy cơ giám sát thái quá phải được các cơ quan độc lập giám định, bảo đảm minh bạch và trách nhiệm công khai. Những cơ quan ấy không được vượt quyền; thẩm quyền của họ luôn phải phục vụ phẩm giá và tự do mỗi người—nền tảng của xã hội công chính, nhân bản.
- Hơn nữa, «tôn trọng căn bản đối với phẩm giá con người đòi từ chối việc đồng nhất độc đáo tính vị nhân với một tập hợp dữ liệu» [171]. Điều này đặc biệt áp dụng cho việc dùng IA đánh giá cá nhân hay nhóm dựa trên hành vi, đặc điểm hoặc quá khứ—thực hành gọi là “xếp hạng xã hội” (social scoring): «Trong các quyết định xã hội—kinh tế, cần thận trọng giao phán xét cho thuật toán xử lý dữ liệu thường thu thập lén lút về cá nhân… Không thể chấp nhận để thuật toán giới hạn hay điều kiện hóa việc tôn trọng phẩm giá con người, cũng như loại trừ lòng cảm thương, khoan dung, tha thứ, và trên hết là hy vọng hoán cải» [172].
IA và bảo vệ ngôi nhà chung
- IA có nhiều ứng dụng đầy hứa hẹn nhằm cải thiện mối tương quan của chúng ta với ngôi nhà chung: mô hình dự báo thiên tai, đề xuất giải pháp kỹ thuật giảm tác động, điều phối cứu trợ, dự báo di dân [173]; hỗ trợ nông nghiệp bền vững, tối ưu hóa năng lượng, cảnh báo y tế sớm. Những tiến bộ ấy có thể tăng khả năng thích ứng trước thách đố khí hậu và xúc tiến phát triển bền vững hơn.
- Đồng thời, các mô hình IA hiện tại và hạ tầng phần cứng hỗ trợ đòi hỏi lượng lớn năng lượng—nước và góp phần đáng kể vào khí thải CO₂, cũng như tiêu thụ tài nguyên cao. Sự thật này thường bị che khuất bởi cách mô tả phổ biến, khi những từ như cloud (“đám mây”) gợi ấn tượng dữ liệu lưu trữ trong cõi vô hình, tách rời vật chất. Thực ra, cloud không hề phi vật chất; cũng như mọi thiết bị tin học, nó cần máy móc, cáp, năng lượng. Công nghệ IA cũng vậy. Khi hệ thống càng phức tạp—đặc biệt là mô hình ngôn ngữ lớn (LLM)—chúng càng đòi tập dữ liệu khổng lồ, công suất tính toán tăng, hạ tầng lưu trữ đồ sộ. Với gánh nặng ấy, phát triển giải pháp bền vững là điều sống còn để giảm tác động lên ngôi nhà chung.
- Do đó, theo lời Đức Phanxicô, cần «tìm kiếm giải pháp không chỉ trong kỹ thuật, mà còn nơi đổi thay con người» [175]. Nhãn quan đúng đắn về tạo thành hiểu rằng giá trị vạn vật không thể quy giản vào tính hữu dụng đơn thuần. Vì thế, quản trị trái đất cách nhân bản bác bỏ chủ nghĩa nhân bản lệch lạc của mô hình kỹ trị—chỉ muốn «khai thác tối đa» tự nhiên [176]—và “huyền thoại tiến bộ”, tưởng rằng «vấn đề sinh thái chỉ cần áp dụng kỹ thuật mới, không cần cân nhắc luân lý hay biến đổi căn bản» [177]. Thay vào đó, cần viễn tượng toàn diện, tôn trọng trật tự tạo thành và cổ vũ lợi ích toàn diện của nhân vị, không quên việc chăm sóc «ngôi nhà chung» [178].
IA và chiến tranh
- Công đồng Vatican II và huấn quyền kế tiếp khẳng định mạnh mẽ: hòa bình không chỉ là vắng chiến tranh hay duy trì thế cân bằng quyền lực; theo thánh Augustinô, hòa bình là «bình an của trật tự» [179]. Hòa bình đòi bảo vệ quyền lợi con người, thông tin tự do, tôn trọng phẩm giá các dân tộc và thực thi huynh đệ. Hòa bình là hoa trái công bình, hiệu quả bác ái; không thể đạt qua sức mạnh thuần túy, nhưng xây dựng nhờ ngoại giao kiên nhẫn, thăng tiến công lý, liên đới, phát triển toàn diện và tôn trọng phẩm giá mọi người [180]. Do vậy, không bao giờ được phép để các phương tiện nhằm duy trì hòa bình trở thành công cụ bất công, bạo lực, áp bức; chúng phải luôn phục tùng «ý chí kiên quyết tôn trọng tha nhân và dân tộc, cùng phẩm giá của họ, và thực hành kiên trì tình huynh đệ» [181].
- Dù khả năng phân tích của IA có thể hỗ trợ quốc gia mưu cầu hòa bình và an ninh, “việc sử dụng quân sự của IA” lại đầy vấn đề. Đức Phanxicô nhận xét: «Khả năng tiến hành chiến dịch quân sự qua hệ thống điều khiển từ xa làm giảm cảm thức về tàn phá và trách nhiệm, góp phần vào thái độ lạnh lùng, xa lạ với thảm kịch chiến tranh» [182]. Hơn nữa, tính dễ dãi của vũ khí tự động khiến chiến tranh khả thi hơn, đi ngược nguyên tắc chiến tranh chỉ là phương sách cuối trong tự vệ chính đáng [183], đẩy chạy đua vũ trang ra ngoài tầm kiểm soát người, gây hậu quả thảm khốc cho nhân quyền [184].
- Đặc biệt, hệ thống vũ khí tự trị sát thương có thể xác định—tấn công mục tiêu không cần can dự con người là «mối lo luân lý nghiêm trọng», vì chúng thiếu «khả năng phán đoán đạo đức độc nhất của con người» [185]. Do đó, Đức Phanxicô khẩn thiết kêu gọi xem xét lại việc phát triển loại vũ khí này để loại bỏ việc sử dụng: «khởi đầu bằng nỗ lực cụ thể nhằm bảo đảm kiểm soát của con người ngày càng lớn và có ý nghĩa. Không máy móc nào được quyết định tước đi mạng sống một con người» [186].
- Khoảng cách từ vũ khí tự trị chính xác đến hủy diệt hàng loạt rất ngắn; một số nhà nghiên cứu IA lo ngại công nghệ này gây ra «nguy cơ hiện sinh», có thể đe dọa sự sống còn của nhân loại hay khu vực rộng lớn. Cần nghiêm túc xem xét khả năng ấy, phù hợp mối quan tâm thường hằng với công nghệ trao cho chiến tranh «sức hủy diệt ngoài kiểm soát, tàn sát thường dân vô tội» [187], kể cả trẻ em. Trong bối cảnh này, lời kêu gọi của Gaudium et spes về «một tư duy hoàn toàn mới khi bàn tới chiến tranh» [188] càng khẩn thiết.
- Đồng thời, khi nguy cơ lý thuyết của IA đáng lưu ý, vẫn còn hiểm họa cấp bách hơn: cách những cá nhân ác ý có thể lợi dụng IA [189]. Như mọi công cụ, IA mở rộng quyền lực nhân loại; dẫu không đoán hết những gì IA sẽ làm, chúng ta quá rõ con người có thể gây gì. Những tàn bạo trong lịch sử đủ gợi nỗi lo sâu xa về khả năng lạm dụng IA.
- Thánh Gioan Phaolô II nhận định: «Nhân loại hôm nay sở hữu công cụ có sức mạnh chưa từng thấy: có thể biến thế giới thành vườn hoa, hoặc thành đống tro tàn» [190]. Trong viễn tượng ấy, Giáo Hội, với Đức Phanxicô, nhắc rằng «tự do con người có thể đóng góp khôn ngoan vào tiến hóa tích cực» hoặc lao vào «lộ trình suy đồi và hủy diệt lẫn nhau» [191]. Để tránh nhân loại rơi vào vòng xoáy tự hủy [192], cần lập trường kiên quyết trước mọi ứng dụng công nghệ đe dọa sự sống và phẩm giá nhân vị. Điều này đòi biện phân cẩn trọng trong việc dùng IA, nhất là ứng dụng quân sự, bảo đảm luôn tôn trọng phẩm giá con người và phục vụ thiện ích chung. Việc phát triển—triển khai IA trong vũ khí phải chịu sự giám sát đạo đức cao nhất, luôn bảo toàn phẩm giá con người và tính thánh thiêng của sự sống [193].
IA và mối tương quan giữa nhân loại với Thiên Chúa
- Công nghệ mang lại những phương tiện hữu hiệu để khám phá và khai triển các tài nguyên của địa cầu, mặc dù trong một số trường hợp, nhân loại ngày càng trao phó việc kiểm soát các tài nguyên ấy cho máy móc. Trong một bộ phận các nhà khoa học và những người theo chủ nghĩa vị lai, đang lan tỏa một sự lạc quan nào đó về tiềm năng của trí tuệ nhân tạo tổng quát (AGI) – một hình thức IA giả định có thể đạt tới hoặc vượt quá trí tuệ con người, mở đường cho những tiến bộ vượt ngoài sức tưởng tượng. Có người còn phỏng đoán AGI sẽ đạt đến năng lực siêu nhân. Khi xã hội tách rời dần khỏi mối dây liên hệ với Đấng Siêu Việt, một số người bị cám dỗ tìm kiếm ý nghĩa và sự viên mãn nơi IA – những khát vọng chỉ có thể được thỏa đáp thực sự trong hiệp thông với Thiên Chúa [194].
- Tuy nhiên, giả định thay thế Thiên Chúa bằng một công trình do chính tay mình làm ra là tà thần – điều mà Thánh Kinh nhiều lần cảnh báo (x. Xh 20,4; 32,1-5; 34,17). Hơn nữa, IA có thể quyến rũ còn mạnh mẽ hơn các ngẫu tượng truyền thống: trong khi các ngẫu tượng «có miệng mà không nói, có mắt mà không nhìn, có tai mà không nghe» (Tv 115,5-6), IA lại có thể “nói”, hoặc ít ra tạo ảo giác rằng nó đang nói (x. Kh 13,15). Thực ra, IA chỉ là phản chiếu nhợt nhạt của con người, được tạo bởi trí óc con người, được huấn luyện trên chất liệu do con người sản sinh, vận hành nhờ kích thích nhân linh và dựa vào lao động con người. Nó không có nhiều khả năng đặc thù của sự sống loài người và cũng có thể sai lầm. Vì thế, kiếm tìm nơi IA một «Đấng Khác» vĩ đại để chia sẻ hiện hữu và trách nhiệm, nhân loại có nguy cơ chép ra một bản sao của Thiên Chúa. Chung cuộc, không phải IA được thần thánh hóa và thờ lạy, nhưng là con người – khiến họ trở nên nô lệ cho chính tác phẩm của mình [195].
- Dẫu có thể phục vụ nhân loại và đóng góp cho ích chung, IA vẫn chỉ là sản phẩm của đôi tay con người, mang «dấu ấn nghệ thuật và óc sáng tạo nhân linh» (Cv 17,29), và không bao giờ được gán cho một giá trị quá mức. Sách Khôn Ngoan viết: «Một con người đã làm ra, một kẻ chỉ nhờn hơi thở mà tồn tại đã nắn nên; không ai có thể làm ra một thần minh giống chính mình; phận người hữu hạn lại chế tạo vật vô hồn bằng đôi tay bất kính. Người nắn nó vẫn cao trọng hơn vật mình thờ: người có sự sống, còn chúng không hề có» (Kn 15,16-17).
- Trái lại, «trong chiều sâu nội tâm, con người vượt lên vũ trụ các sự vật: nơi đáy lòng ấy, con người trở về với chính mình, nơi Thiên Chúa thấu suốt cõi lòng đang chờ đợi họ, và tại đó, trước ánh mắt Thiên Chúa, con người quyết định vận mệnh mình» [196]. Chính con tim – Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc – giúp mỗi người khám phá «mối liên hệ nghịch thường giữa việc khẳng định giá trị của bản thân và việc mở ra với người khác, giữa cuộc gặp gỡ thâm sâu với chính mình và sự trao hiến cho tha nhân» [197]. Vì thế, «chỉ có con tim mới có khả năng đặt các năng lực và đam mê khác của chúng ta cũng như toàn thể con người chúng ta trong thái độ kính sợ và vâng phục yêu mến Thiên Chúa» [198], Đấng «luôn luôn và mãi mãi đối xử với chúng ta như một “ngươi”» [199].
VI. Suy tư kết thúc
- Trước mọi thách đố do tiến bộ công nghệ đặt ra, Đức Thánh Cha Phanxicô lưu ý cần có một sự phát triển «tương xứng về trách nhiệm, giá trị và lương tâm» với mức gia tăng khả năng do công nghệ mang lại [200], bởi «quyền lực của con người càng lớn thì trách nhiệm của họ càng mở rộng» [201].
- Mặt khác, «câu hỏi chủ chốt và nền tảng» vẫn luôn là liệu «con người, với tư cách là con người, giữa bối cảnh tiến bộ này, có thực sự trở nên tốt hơn: trưởng thành hơn về thiêng liêng, ý thức hơn về phẩm giá nhân linh, có trách nhiệm hơn, quảng đại hơn với tha nhân – đặc biệt người nghèo yếu – sẵn sàng hơn trong việc trao ban và phục vụ» [202].
- Do đó, điều thiết yếu là đánh giá phê phán từng ứng dụng IA trong bối cảnh cụ thể, xem chúng có thăng tiến phẩm giá và ơn gọi nhân linh, cũng như ích chung, hay không. Vì nhiều công nghệ khó lường trước mọi hệ quả, nên khi ảnh hưởng xã hội của chúng trở nên rõ ràng hơn, phải kịp thời phản hồi thích hợp ở mọi cấp độ, theo nguyên tắc bổ trợ. Người dùng, gia đình, xã hội dân sự, doanh nghiệp, các thiết chế, chính phủ và tổ chức quốc tế – mỗi thành phần trong phạm vi năng lực của mình – cần bảo đảm IA được vận dụng cho lợi ích của tất cả.
- Thách đố lớn – đồng thời là cơ hội cho ích chung – hôm nay là đặt IA trong chân trời “trí tuệ tương quan”, nhấn mạnh sự kết nối giữa các cá nhân và cộng đồng, đồng thời đề cao trách nhiệm chung nhằm thúc đẩy lợi ích toàn diện của tha nhân. Triết gia Nikolaj Berdjaev từng nhận xét: con người thường đổ lỗi cho máy móc về các vấn nạn, nhưng như thế chỉ hạ thấp con người và trái với phẩm giá của họ, bởi «thật không xứng khi chuyển giao trách nhiệm từ con người cho máy móc» [203]. Chỉ nhân vị mới là chủ thể đạo đức; nên để đối diện thách đố xã hội kỹ thuật cao, cần một «sự hồi sinh mẫn cảm thiêng liêng» [204].
- Sự xuất hiện của IA cũng kêu gọi chúng ta tái trân quý mọi điều nhân bản. Nhà văn Công giáo Georges Bernanos đã cảnh tỉnh: «Hiểm họa không ở chỗ nhân lên máy móc, nhưng ở con số ngày càng lớn những con người ngay từ thơ ấu chẳng còn khao khát gì ngoài những gì máy móc có thể ban» [205]. Nguy cơ “giảm trừ kỹ thuật số” khiến các kinh nghiệm không đo lường được bị bỏ quên, hoặc bị xem là không quan trọng vì không thể tính bằng công thức. IA chỉ nên là công cụ bổ trợ cho trí tuệ con người, chứ không thay thế sự phong phú của nó [206]. Việc nuôi dưỡng những chiều kích vượt ngoài tính toán là then chốt để bảo vệ một «nhân tính đích thực», vốn «dường như ngụ cư trong nền văn minh kỹ thuật, hầu như không nhận thấy, tựa làn sương len qua khe cửa đóng» [207].
Sự khôn ngoan đích thực
- Ngày nay, kiến thức rộng lớn sẵn có theo những cách khiến các thế hệ trước phải kinh ngạc; tuy vậy, để các tiến bộ khoa học không trở nên vô sinh về nhân bản và thiêng liêng, chúng ta phải vượt khỏi việc tích lũy dữ kiện và tiến tới khôn ngoan đích thực [208].
- Khôn ngoan ấy là ân ban nhân loại cần nhất để đối diện các vấn nạn sâu xa và thách đố luân lý do IA đặt ra: «Chỉ khi có cái nhìn thiêng liêng, chỉ khi phục hồi khôn ngoan của con tim, chúng ta mới đọc được và giải mã được sự mới mẻ của thời đại» [209]. Khôn ngoan của con tim là «nhân đức giúp chúng ta đan kết tổng thể với chi tiết, quyết định với hệ quả». Nhân loại «không thể đòi hỏi khôn ngoan ấy nơi máy móc», vì khôn ngoan «tự để mình tìm gặp bởi kẻ đi tìm và cho mình thấy bởi người yêu mến; khôn ngoan đón trước người ước ao và tìm kiếm người xứng đáng» (x. Kn 6,12-16) [210].
- Trong thế giới in dấu IA, chúng ta cần ơn Chúa Thánh Thần, Đấng «giúp nhìn sự vật bằng con mắt Thiên Chúa, hiểu các mối liên hệ, các hoàn cảnh, biến cố và khám phá ý nghĩa của chúng» [211].
- Bởi «thước đo sự hoàn thiện của con người là mức độ đức ái, chứ không phải lượng dữ kiện hay tri thức họ tích lũy» [212], cách chúng ta dùng IA «để bao gồm người sau rốt – tức anh chị em yếu thế, túng thiếu – chính là thước đo bộc lộ nhân tính của chúng ta» [213]. Khôn ngoan ấy soi sáng và hướng dẫn một việc sử dụng IA lấy con người làm trung tâm, nhờ đó thúc đẩy công ích, bảo vệ ngôi nhà chung, tiến bước trong tìm kiếm chân lý, nâng đỡ phát triển toàn diện, cổ vũ liên đới và huynh đệ nhân loại, để dẫn dắt nhân loại tới cùng đích tối hậu: hiệp thông viên mãn, hạnh phúc với Thiên Chúa [214].
- Trong ánh sáng khôn ngoan, các tín hữu có thể hành động như những tác nhân có trách nhiệm, biết dùng công nghệ này để thăng tiến cái nhìn chân thực về nhân vị và xã hội [215], khởi đi từ xác tín rằng tiến bộ kỹ thuật là phần của kế hoạch Thiên Chúa đối với công trình tạo dựng: một hoạt động mà nhân loại được mời gọi quy hướng về Mầu Nhiệm Vượt Qua của Đức Giêsu Kitô, trong hành trình không ngừng kiếm tìm Chân – Thiện.
Đức Thánh Cha Phanxicô, trong buổi tiếp kiến ban cho các ĐHY Prefetti và các Tổng Thư ký của Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin và Thánh Bộ Văn Hóa và Giáo Dục ngày 14 tháng Giêng 2025, đã chấp thuận Bản Ghi Chú này và truyền công bố.
Ban hành tại Rôma, tại trụ sở Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin và Thánh Bộ Văn Hóa và Giáo Dục, ngày 28 tháng Giêng 2025, Kỷ niệm Phụng vụ Thánh Tôma Aquinô, Tiến sĩ Hội Thánh.
Víctor Manuel Card. Fernández | José Card. Tolentino de Mendonça |
Prefetto | Prefetto |
Đức Ông Armando Matteo | Đức Cha Paul Tighe |
Tổng Thư ký Phân bộ Giáo lý | Tổng Thư ký Phân bộ Văn hóa |
Ex Audientia Die 14.01.2025
Franciscus
Chuyển ngữ Lm. André Tuấn,AA
NOTES
[1] Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 378. Xem thêm: Công đồng Chung Vaticanô II, Hiến chế Mục vụ Gaudium et spes (7-12-1965), số 34: AAS 58 (1966) 1052-1053.
[2] Đức Thánh Cha Phanxicô, Huấn từ gửi các tham dự viên Khóa họp Toàn thể Hàn lâm viện Giáo hoàng về Sự Sống (28-02-2020): AAS 112 (2020) 307. X. cũng: Huấn từ Đức Thánh Cha gửi Giáo triều Rôma nhân dịp Giáng Sinh (21-12-2019): AAS 112 (2020) 43.
[3] Đức Phanxicô, Sứ điệp Ngày Thế giới Truyền thông Xã hội lần thứ 58 (24-01-2024): L’Osservatore Romano, 24-01-2024, tr. 8.
[4] X. Sách Giáo Lý HTCG, số 2293; Công đồng Vaticanô II, Gaudium et spes, số 35: AAS 58 (1966) 1053.
[5] J. McCarthy và cộng sự, “Đề nghị cho Khóa nghiên cứu mùa hè Dartmouth về Trí tuệ nhân tạo” (31-08-1955), http://www-formal.stanford.edu/jmc/history/dartmouth/dartmouth.html (truy cập: 21-10-2024).
[6] X. Đức Phanxicô, Sứ điệp Ngày Hòa bình Thế giới lần thứ 57 (01-01-2024), số 2-3: L’Osservatore Romano, 14-12-2023, tr. 2.
[7] Các thuật ngữ được dùng trong tài liệu này nhằm mô tả kết quả hay tiến trình của IA theo nghĩa bóng để minh họa hoạt động của nó, không có ý gán cho IA những đặc tính nhân linh.
[8] X. Đức Phanxicô, Huấn từ tại Phiên họp G7 về Trí tuệ nhân tạo, Borgo Egnazia – Puglia (14-06-2024): L’Osservatore Romano, 14-06-2024, tr. 3; Sứ điệp Ngày Hòa bình Thế giới 2024, số 2: L’Osservatore Romano, 14-12-2023, tr. 2.
[9] Ở đây hàm chứa hai lập trường chính của “chủ nghĩa hậu nhân bản” và “chủ nghĩa siêu nhân”. … (nguyên văn giải thích được giữ nguyên, chỉ Việt hóa thuật ngữ và trích dẫn cuối) — Bộ Giáo lý Đức Tin, Tuyên ngôn Dignitas infinita (08-04-2024), số 18.
[10] Cách tiếp cận này phản ánh lập trường chức năng luận, … dù một AGI tương lai có tỏ ra thông minh, nó vẫn chỉ mang tính chức năng.
[11] X. A. M. Turing, “Máy tính và Trí tuệ”, Mind 59 (1950) 443-460.
[12] Nếu gán cho máy móc “tư duy”, … tư duy nhân linh là tiến trình sáng tạo vượt ngoài dữ kiện sẵn có.
[13] Về vai trò ngôn ngữ trong việc hình thành nhận thức, x. M. Heidegger, Thư về “Chủ nghĩa nhân bản”, Klostermann, Frankfurt a.M. 1949 (bản dịch Việt ngữ: Thư về nhân bản).
[14] X. Nhóm Nghiên cứu AI – Trung tâm Văn hóa Kỹ thuật số, Dicasterium pro Cultura et Educatione, Encountering Artificial Intelligence: Ethical and Anthropological Investigations … Pickwick, Eugene 2024, tr. 43-144.
[16] X. thánh Augustinô Hipponensis, De Genesi ad litteram libri duodecim, III, 20, 30: PL 34, 292: «Con người được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa chính nhờ khả năng giúp họ vượt trổi các loài vật vô lý; khả năng ấy là lý trí — hay trí khôn, trí tuệ, hoặc bất kỳ tên gọi nào dành cho năng lực đó». Id., Enarrationes in Psalmos, 54, 3: PL 36, 629: «Xem xét mọi điều mình có, con người đi tới kết luận rằng họ hơn súc vật ở chỗ họ sở hữu trí tuệ». Thánh Tôma Aquinô cũng xác quyết: «Con người là hữu thể hoàn hảo nhất trong mọi sinh vật có vận động trên mặt đất; hành vi tự nhiên riêng của họ là intellezione», nhờ đó họ trừu xuất các sự vật và «đón nhận trong tâm trí các khả tri như hiện hành» (Summa contra Gentiles, II, 76).
[17] X. Công đồng Chung Vatican II, Hiến chế Mục vụ Gaudium et spes (7-12-1965), số 15: AAS 58 (1966) 1036.
[18] Tôma Aquinô, Summa Theologiae, II-II, q. 49, a. 5, ad 3; x. cũng: I, q. 79; II-II, q. 47, a. 3; II-II, q. 49, a. 2. – Về một cách nhìn hiện đại gợi lại phần nào phân biệt cổ điển-kinh viện giữa hai mô thức tư duy này, xem D. Kahneman, Thinking, Fast and Slow, Farrar, Straus and Giroux, New York 2011 (bản dịch Việt ngữ: Tư duy nhanh và chậm).
[19] Tôma Aquinô, Summa Theologiae, I, q. 76, a. 1, resp.
[20] X. thánh Irênê thành Lyon, Adversus haereses, V, 6, 1: PG 7/2, 1136-1138.
[21] Bộ Giáo lý Đức Tin, Tuyên ngôn Dignitas infinita (8-4-2024), số 9. X. Phanxicô, Thông điệp Fratelli tutti (3-10-2020), số 213: AAS 112 (2020) 1045.
[22] X. Bộ Giáo lý Đức Tin, Nota doctrinale su alcuni aspetti dell’evangelizzazione (3-12-2007), số 4: AAS 100 (2008) 491-492.
[23] SGKHTCG, số 365. X. Tôma Aquinô, Summa Theologiae, I, q. 75, a. 4, resp.
[24] «Thánh Kinh thường coi con người như một hữu thể tồn tại trong thân xác, không thể nghĩ tới ngoài thân xác» (Ủy ban Kinh Thánh Giáo hoàng, “Con người là gì?” [30-9-2019], số 19; x. số 20-21, 43-44, 48).
[25] Vatican II, Gaudium et spes, số 22: AAS 58 (1966) 1042. X. Bộ GLĐT, Huấn thị Dignitas personae (8-9-2008), số 7: AAS 100 (2008) 863.
[26] Tôma Aquinô, Summa contra Gentiles, II, 81.
[27] Vatican II, Gaudium et spes, số 15: AAS 58 (1966) 1036.
[28] X. Tôma Aquinô, Summa Theologiae, I, q. 89, a. 1, resp.: «Sự tồn tại tách rời thân xác không phù hợp với bản tính [linh hồn] … linh hồn được kết hợp với thân xác ngõ hầu có tồn tại và hoạt động xứng hợp bản tính mình».
[29] Vatican II, Gaudium et spes, số 14: AAS 58 (1966) 1035. X. Dignitas infinita (2024), số 18.
[30] Ủy ban Thần học QT, Comunione e servizio. La persona umana creata ad immagine di Dio (2004), số 56. X. SGKHTCG, số 357.
[31] X. Bộ GLĐT, Dignitas personae (8-9-2008), số 5.8: AAS 100 (2008) 862-864; Dignitas infinita (2024), số 15.24.53-54.
[32] SGKHTCG, số 356; x. cũng số 221.
[33] X. Dignitas infinita (2024), số 13.26-27.
[34] Bộ GLĐT, Huấn thị Donum veritatis (24-5-1990), số 6: AAS 82 (1990) 1552. X. Gioan Phaolô II, Thông điệp Veritatis splendor (6-8-1993), số 109: AAS 85 (1993) 1219; Pseudo-Dionysi Areopagita, De divinis nominibus, VII, 2: PG 3, 868B-C.
[35] Gioan Phaolô II, Thông điệp Fides et ratio (14-9-1998), số 3: AAS 91 (1999) 7.
[36] Vatican II, Gaudium et spes, số 15: AAS 58 (1966) 1036.
[37] Gioan Phaolô II, Fides et ratio, số 42: AAS 91 (1999) 38. X. Phanxicô, Fratelli tutti, số 208 & 184: AAS 112 (2020) 1043 & 1034.
[38] X. B. Pascal, Pensées, số 267 (bản Brunschvicg; bản dịch VN: Tư tưởng).
[39] Vatican II, Gaudium et spes, số 15; x. Bộ GLĐT, Nota doctrinale… (3-12-2007), số 4.
[40] Năng lực ngữ nghĩa cho phép con người nắm bắt ý nghĩa … (nguyên văn giải thích, giữ nguyên trích dẫn Thông điệp Truyền thông 2024).
[41] Vatican II, Tuyên ngôn Dignitatis humanae (7-12-1965), số 3: AAS 58 (1966) 931.
[42] Trích Fratelli tutti, số 184, với dẫn nội tại Thông điệp Caritas in veritate của Bênêđictô XVI, số 3-4: AAS 101 (2009) 642-643.
[43] X. Ủy ban Thần học QT, Comunione e servizio (2004), số 7.
[44] Gioan Phaolô II, Fides et ratio, số 13: AAS 91 (1999) 15; x. Bộ GLĐT, Nota doctrinale… (2007), số 4.
[45] Gioan Phaolô II, Fides et ratio, số 13: AAS 91 (1999) 15.
[46] Bonaventura da Bagnoregio, In II Librum Sententiarum, d. I, p. 2, a. 2, q. 1, trích SGKHTCG, số 293; x. số 294.
[47] X. SGKHTCG, số 295.299.302; Bonaventura, Breviloquium, II, 12, 1; Alano de Lilla, De incarnatione Christi: PL 210, 579a.
[48] X. Phanxicô, Thông điệp Laudato si’ (24-5-2015), số 67; Gioan Phaolô II, Thông điệp Laborem exercens (14-9-1981), số 6; Vatican II, Gaudium et spes, số 33-34; Ủy ban Thần học QT, Comunione e servizio (2004), số 57.
[49] X. Gioan Phaolô II, Veritatis splendor, số 38-39.
[50] X. Vatican II, Gaudium et spes, số 33-34. Ý tưởng này cũng thấy trong trình thuật Sáng thế 2,19 …; x. Gioan Kim Khẩu, Homiliae in Genesim, XIV, 17-21: PG 53, 116-117.
[51] X. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo (SGKHTCG), số 301.
[52] X. SGKHTCG, số 302.
[53] Bonaventura da Bagnoregio, Breviloquium II, 12, 1; x. cũng II, 11, 2.
[54] X. Đức Phanxicô, Tông huấn Evangelii gaudium (24-11-2013), số 236: AAS 105 (2013) 1115; và Huấn từ gửi các tuyên úy & phụ trách mục vụ đại học (24-11-2023): L’Osservatore Romano (LOR), 24-11-2023, tr. 7.
[55] X. J. H. Newman, The Idea of a University, Diễn từ 5.1, London 1873³, 99-100 (bản dịch Ý: L’idea di un’università); Đức Phanxicô, Huấn từ gửi các viện đại học Giáo hoàng Rôma (25-02-2023): AAS 115 (2023) 316.
[56] Đức Phanxicô, Huấn từ cho Liên đoàn Thủ công và Doanh nghiệp Vừa & Nhỏ CNA (15-11-2024): LOR, 15-11-2024, tr. 8.
[57] X. Đức Phanxicô, Tông huấn Querida Amazonia (02-02-2020), số 41: AAS 112 (2020) 246; Thông điệp Laudato si’ (24-05-2015), số 146: AAS 107 (2015) 906.
[58] Đức Phanxicô, Laudato si’, số 47: AAS 107 (2015) 864; x. thêm Thông điệp Dilexit nos (24-10-2024), số 17-24: LOR, 24-10-2024, tr. 5; Fratelli tutti (03-10-2020), số 47-50: AAS 112 (2020) 985-987.
[59] Đức Phanxicô, Dilexit nos, số 20: LOR, 24-10-2024, tr. 5.
[60] P. Claudel, Conversation sur Jean Racine, Gallimard, Paris 1956, tr. 32; x. Đức Phanxicô, Dilexit nos, số 13: LOR, 24-10-2024, tr. 5.
[61] Dante Alighieri, Paradiso, Khúc XXX.
[62] Vatican II, Tuyên ngôn Dignitatis humanae (07-12-1965), số 3: AAS 58 (1966) 931; và Gaudium et spes, số 16: AAS 58 (1966) 1037.
[63] Công đồng Vatican I, Hiến chế tín lý Dei Filius (24-04-1870), chương 4: DH 3016.
[64] Đức Phanxicô, Laudato si’, số 110: AAS 107 (2015) 892.
[65] Đức Phanxicô, Laudato si’, số 110: AAS 107 (2015) 891; x. Fratelli tutti, số 204: AAS 112 (2020) 1042.
[66] Gioan Phaolô II, Thông điệp Centesimus annus (01-05-1991), số 11: AAS 83 (1991) 807; x. Đức Phanxicô, Huấn từ G7 về IA, Borgo Egnazia (14-06-2024): LOR, 14-06-2024, tr. 3-4.
[67] X. Dignitas infinita (2024), số 8-9; Huấn thị Dignitas personae (08-09-2008), số 22.
[68] Đức Phanxicô, Huấn từ Khóa họp Toàn thể Hàn lâm viện Sự Sống (28-02-2020): AAS 112 (2020) 310.
[69] Đức Phanxicô, Sứ điệp Ngày Truyền thông Xã hội 58 (24-01-2024): LOR, 24-01-2024, tr. 8.
[70] Thuật ngữ “trí tuệ nhân tạo” ở đây được hiểu như nhãn kỹ thuật chỉ công nghệ liên quan, đồng thời chỉ cả ngành nghiên cứu.
[71] X. Vatican II, Gaudium et spes, số 34-35; Gioan Phaolô II, Centesimus annus, số 51: AAS 83 (1991) 856-857.
[72] Thí dụ: Albertô Cả, De Mineralibus II, 2, 1; Hugues de Saint-Victor, Didascalicon I, 9; trích Đức Phanxicô, Huấn từ Hội nghị Đài Thiên văn Vatican tưởng niệm G. Lemaître (20-06-2024): LOR, 20-06-2024, tr. 8; cùng các tham chiếu khác.
[73] SGKHTCG, số 378.
[74] X. Vatican II, Gaudium et spes, số 34.
[75] X. ibid., số 35.
[76] Đức Phanxicô, Laudato si’, số 102: AAS 107 (2015) 888.
[77] X. Đức Phanxicô, Laudato si’, số 105; Fratelli tutti, số 27; Bênêđictô XVI, Caritas in veritate, số 23.
[78] X. Dignitas infinita (2024), số 38-39, 47; Huấn thị Dignitas personae (2008), passim.
[79] Vatican II, Gaudium et spes, số 35: AAS 58 (1966) 1053; x. SGKHTCG, số 2293.
[80] Đức Phanxicô, Huấn từ G7 về IA (14-06-2024): LOR, tr. 2-4.
[81] X. SGKHTCG, số 1749.
[82] Vatican II, Gaudium et spes, số 16; x. SGKHTCG, số 1776.
[83] SGKHTCG, số 1777.
[84] X. SGKHTCG, số 1779-1781; Đức Phanxicô, Huấn từ “Minerva Dialogues” (27-03-2023): AAS 115 (2023) 463.
[85] X. Đức Phanxicô, Fratelli tutti, số 166; Huấn từ Hàn lâm viện Sự Sống (23-09-2024): AAS 112 (2020) 308; tham chiếu F. Dessauer, Streit um die Technik, Freiburg 1956, 144.
[86] Đức Phanxicô, Huấn từ G7 về IA (14-06-2024): LOR, tr. 4.
[87] Đức Phanxicô, Huấn từ Hàn lâm viện Sự Sống (28-02-2020): AAS 112 (2020) 309.
[88] Đức Phanxicô, Huấn từ G7 về IA (14-06-2024): LOR, tr. 3-4.
[89] Đức Phanxicô, Huấn từ “Minerva Dialogues” (27-03-2023): AAS 115 (2023) 464; x. Fratelli tutti, số 212-213.
[90] X. Gioan Phaolô II, Laborem exercens, số 5; Đức Phanxicô, Huấn từ G7 về IA (14-06-2024).
[91] Đức Phanxicô, Huấn từ G7 về IA (14-06-2024): LOR, tr. 2.
[92] Như trên.
[93] Trong tài liệu, “bias” chỉ định kiến thuật toán; không nói tới vector bias trong mạng nơ-ron.
[94] Đức Phanxicô, Huấn từ “Minerva Dialogues” (27-03-2023): AAS 115 (2023) 464.
[95] Đức Phanxicô, Huấn từ cho Phái đoàn Viện Max Planck (23-02-2023): LOR, 23-02-2023, tr. 8.
[96] Vatican II, Gaudium et spes, số 26: AAS 58 (1966) 1046-1047.
[97] Đức Phanxicô, Huấn từ Hội thảo “Thiện ích chung trong thời đại số” (27-09-2019): AAS 111 (2019) 1571.
[98] Đức Phanxicô, Sứ điệp Truyền thông Xã hội 58 (24-01-2024): LOR, tr. 8; x. Nhóm Nghiên cứu AI, Encountering Artificial Intelligence, Pickwick 2024, tr. 147-253.
[99] Về tầm quan trọng của đối thoại trong xã hội đa nguyên, hướng tới «một luân lý xã hội vững chắc», xem Đức Phanxicô, Fratelli tutti, số 211-214: AAS 112 (2020) 1044-1045.
[100] Đức Phanxicô, Sứ điệp Ngày Hòa bình Thế giới lần thứ 57 (01-01-2024), số 2: L’Osservatore Romano (LOR), 14-12-2023, tr. 2.
[101] Đức Phanxicô, Sứ điệp Ngày Hòa bình Thế giới 57, số 6: LOR, 14-12-2023, tr. 3. X. Công đồng Vatican II, Hiến chế Mục vụ Gaudium et spes (07-12-1965), số 26: AAS 58 (1966) 1046-1047.
[102] X. Đức Phanxicô, Thông điệp Laudato si’ (24-05-2015), số 112: AAS 107 (2015) 892-893.
[103] Đức Phanxicô, Huấn từ “Minerva Dialogues” (27-03-2023): AAS 115 (2023) 464.
[104] X. Hội đồng Giáo hoàng Truyền thông Xã hội, Tài liệu Đạo đức trên Internet (22-02-2002), số 10.
[105] Đức Phanxicô, Tông huấn Christus vivit (25-03-2019), số 89: AAS 111 (2019) 413-414; trích Tài liệu kết thúc Thượng Hội đồng Giám mục XV (27-10-2018), số 24: AAS 110 (2018) 1593. X. Bênêđictô XVI, Huấn từ Hội nghị quốc tế về luật luân lý tự nhiên (12-02-2007): AAS 99 (2007) 245.
[106] X. Đức Phanxicô, Laudato si’, số 105-114: AAS 107 (2015) 889-893; Tông huấn Laudate Deum (04-10-2023), số 20-33: AAS 115 (2023) 1047-1050.
[107] Đức Phanxicô, Laudato si’, số 105: AAS 107 (2015) 889; x. Laudate Deum, số 20-21: AAS 115 (2023) 1047.
[108] X. Đức Phanxicô, Huấn từ Hàn lâm viện Sự Sống (28-02-2020): AAS 112 (2020) 308-309.
[109] Đức Phanxicô, Sứ điệp Hòa bình 57, số 2: LOR, 14-12-2023, tr. 2.
[110] Đức Phanxicô, Laudato si’, số 112: AAS 107 (2015) 892.
[111] X. Đức Phanxicô, Fratelli tutti (03-10-2020), số 101.103.111.115.167: AAS 112 (2020) 1004-1009.1027.
[112] Vatican II, Gaudium et spes, số 26: AAS 58 (1966) 1046-1047; x. Lêô XIII, Thông điệp Rerum novarum (15-05-1891), số 28: Acta Leonis XIII 11 (1892) 123.
[113] Vatican II, Gaudium et spes, số 12: AAS 58 (1966) 1034.
[114] X. Hội đồng Giáo hoàng Công lý & Hòa bình, Tóm lược Học thuyết Xã hội GH (2004), số 149.
[115] Vatican II, Dignitatis humanae (07-12-1965), số 3: AAS 58 (1966) 931; x. Đức Phanxicô, Fratelli tutti, số 50: AAS 112 (2020) 986-987.
[116] Đức Phanxicô, Fratelli tutti, số 50: AAS 112 (2020) 986-987.
[117] Đức Phanxicô, Laudato si’, số 47: AAS 107 (2015) 865; x. Christus vivit, số 88-89: AAS 111 (2019) 413-414.
[118] X. Đức Phanxicô, Tông huấn Evangelii gaudium (24-11-2013), số 88: AAS 105 (2013) 1057.
[119] Đức Phanxicô, Fratelli tutti, số 47: AAS 112 (2020) 985.
[120] X. Đức Phanxicô, Huấn từ G7 về IA, Borgo Egnazia (14-06-2024): LOR, 14-06-2024, tr. 2.
[121] X. Đức Phanxicô, Fratelli tutti, số 50: AAS 112 (2020) 986-987.
[122] X. Edith Stein, Zum Problem der Einfühlung (1917) – bản dịch Ý: Il problema dell’empatia, Milano 1985.
[123] X. Đức Phanxicô, Evangelii gaudium, số 88: AAS 105 (2013) 1057; Vatican II, Gaudium et spes, số 24: AAS 58 (1966) 1044-1045.
[124] X. Dignitas infinita (08-04-2024), số 1.
[125] X. Đức Phanxicô, Huấn từ “Thiện ích chung trong kỷ nguyên số” (27-09-2019): AAS 111 (2019) 1570; Laudato si’, số 18.124-129: AAS 107 (2015) 854.897-899.
[126] Đức Phanxicô, Sứ điệp Hòa bình 57, số 5: LOR, 14-12-2023, tr. 3.
[127] Đức Phanxicô, Evangelii gaudium, số 209: AAS 105 (2013) 1107.
[128] Đức Phanxicô, Huấn từ G7 về IA (14-06-2024): LOR, tr. 4; đồng thời tham chiếu Laudato si’, số 106-114: AAS 107 (2015) 889-893.
[129] Vatican II, Gaudium et spes, số 26: AAS 58 (1966) 1046-1047; x. SGKHTCG, số 1912; Gioan XXIII, Thông điệp Mater et magistra (15-05-1961), số 219: AAS 53 (1961) 453.
[130] Vatican II, Gaudium et spes, số 64: AAS 58 (1966) 1086.
[131] Đức Phanxicô, Fratelli tutti, số 162: AAS 112 (2020) 1025; x. Gioan Phaolô II, Laborem exercens (14-09-1981), số 6: AAS 73 (1981) 591.
[132] Đức Phanxicô, Laudato si’, số 128: AAS 107 (2015) 898; x. Tông huấn Amoris laetitia (19-03-2016), số 24: AAS 108 (2016) 319-320.
[133] Đức Phanxicô, Sứ điệp Hòa bình 57, số 5: LOR, 14-12-2023, tr. 3.
[134] Gioan Phaolô II, Thông điệp Evangelium vitae (25-03-1995), số 89: AAS 87 (1995) 502.
[135] Như trên.
[136] Đức Phanxicô, Fratelli tutti, số 67: AAS 112 (2020) 993; trích Sứ điệp Ngày Thế giới Bệnh nhân 31 (11-02-2023): LOR, 10-01-2023, tr. 8.
[137] Đức Phanxicô, Sứ điệp Ngày Bệnh nhân 32 (11-02-2024): LOR, 13-01-2024, tr. 12.
[138] Đức Phanxicô, Huấn từ Ngoại giao đoàn (11-01-2016): AAS 108 (2016) 120; x. Fratelli tutti, số 18: AAS 112 (2020) 975; Sứ điệp Bệnh nhân 32, tr. 12.
[139] X. Đức Phanxicô, “Minerva Dialogues” (27-03-2023): AAS 115 (2023) 465; Huấn từ G7, tr. 2.
[140] X. Đức Phanxicô, Laudato si’, số 105.107; Fratelli tutti, số 18-21; “Minerva Dialogues”, tr. 465.
[141] Đức Phanxicô, Huấn từ Ủy ban Bác ái & Y tế HĐGM Ý (10-02-2017): AAS 109 (2017) 242-243.
[142] Đức Phanxicô, Sứ điệp Hòa bình 57, số 5: LOR, 14-12-2023, tr. 3.
[143] Vatican II, Tuyên ngôn Gravissimum educationis (28-10-1965), số 1: AAS 58 (1966) 729.
[144] Bộ Giáo dục Công giáo, Huấn thị về dạy học trực tuyến (2021), số 2; x. Gravissimum educationis, số 1; Đức Phanxicô, Sứ điệp Hòa bình 49 (01-01-2016), số 6: AAS 108 (2016) 57-58.
[145] Đức Phanxicô, Huấn từ Dự án GRACE (20-04-2022): AAS 114 (2022) 580.
[146] X. Phaolô VI, Tông huấn Evangelii nuntiandi (08-12-1975), số 41: AAS 68 (1976) 31; trích Huấn từ (02-10-1974): AAS 66 (1974) 568.
[147] J. H. Newman, The Idea of a University, Diễn từ 6.1, London 1873³, 125-126.
[148] X. Đức Phanxicô, Gặp sinh viên Trường Barbarigo (23-03-2019): LOR, 24-03-2019, tr. 8; Huấn từ các Đại học Giáo hoàng (25-02-2023): AAS 115 (2023) 316.
[149] Đức Phanxicô, Christus vivit, số 86: AAS 111 (2019) 413; trích Tài liệu kết thúc THĐGiám mục 2018, số 21: AAS 110 (2018) 1592.
[150] J. H. Newman, The Idea of a University, Diễn từ 7.6, London 1873³, 167.
[151] X. Đức Phanxicô, Tông huấn Christus vivit (25-03-2019), số 88: AAS 111 (2019) 413.
[152] Trong tài liệu chiến lược 2023 của UNESCO về IA sinh sinh (GenAI) trong giáo dục & nghiên cứu: UNESCO, Guidance for Generative AI in Education and Research (2023) 37-38. – Triết gia H. Arendt đã cảnh báo trong The Human Condition, University of Chicago Press, Chicago 2018², 3 (bản dịch VN: Vita activa. Thân phận con người, 2017).
[153] Đức Phanxicô, Tông huấn Amoris laetitia (19-03-2016), số 262: AAS 108 (2016) 417.
[154] Đức Phanxicô, Sứ điệp Hòa bình 57 (01-01-2024), số 7: LOR, 14-12-2023, tr. 3; x. Laudato si’ (24-05-2015), số 167: AAS 107 (2015) 914.
[155] Gioan Phaolô II, Tông hiến Ex corde Ecclesiae (15-08-1990), số 7: AAS 82 (1990) 1479.
[156] Đức Phanxicô, Tông hiến Veritatis gaudium (29-01-2018) 4c: AAS 110 (2018) 9-10.
[157] Đức Phanxicô, Huấn từ G7 về IA, Borgo Egnazia (14-06-2024): LOR, 14-06-2024, tr. 3.
[158] Chẳng hạn IA có thể giúp tiếp cận «các nguồn lực phong phú… để thăng tiến kiến thức về chân lý» được chứa trong trước tác triết học (x. Gioan Phaolô II, Thông điệp Fides et ratio [14-09-1998], số 3-4: AAS 91 [1999] 7-8).
[159] Bộ Giáo lý Đức Tin, Tuyên ngôn Dignitas infinita (08-04-2024), số 43; x. số 61-62.
[160] Đức Phanxicô, Sứ điệp Truyền thông 58 (24-01-2024): LOR, 24-01-2024, tr. 8.
[161] Vatican II, Gaudium et spes, số 25: AAS 58 (1966) 1053; x. Đức Phanxicô, Fratelli tutti, passim.
[162] X. Đức Phanxicô, Christus vivit, số 89: AAS 111 (2019) 414; Gioan Phaolô II, Fides et ratio, số 25: AAS 91 (1999) 25-26; trích Augustinô, Confessiones X, 23, 33: PL 32, 793.
[163] Dignitas infinita (2024), số 62.
[164] Bênêđictô XVI, Sứ điệp Truyền thông 43 (24-05-2009): LOR, 24-01-2009, tr. 8.
[165] X. Bộ Truyền thông, Huấn thị Hướng tới một hiện diện tròn đầy (28-05-2023), số 41; Vatican II, Sắc lệnh Inter mirifica (04-12-1963), số 4.8-12: AAS 56 (1964) 146.148-149.
[166] X. Dignitas infinita (2024), số 1.6.16.24.
[167] Vatican II, Gaudium et spes, số 26: AAS 58 (1966) 1046; x. Lêô XIII, Rerum novarum (15-05-1891), số 32: Acta Leonis XIII 11 (1892) 127; được trích trong Gioan Phaolô II, Centesimus annus (01-05-1991), số 9: AAS 83 (1991) 804.
[168] X. SGKHTCG, số 2477.2489; điều 220 CIC; điều 23 CCEO; Gioan Phaolô II, Huấn từ Puebla (28-01-1979) III, 1-2.
[169] X. Phái đoàn Tòa Thánh tại LHQ, Tuyên bố (24-10-2022) về biện pháp giải giới khác: khẳng định bảo vệ quyền riêng tư trong không gian số.
[170] Đức Phanxicô, Fratelli tutti, số 42: AAS 112 (2020) 984.
[171] Đức Phanxicô, Sứ điệp Hòa bình 57, số 5: LOR, 14-12-2023, tr. 3.
[172] Đức Phanxicô, “Minerva Dialogues” (27-03-2023): AAS 115 (2023) 465.
[173] Nhóm Tư vấn AI LHQ, Interim Report: Governing AI for Humanity (12-2023), tr. 3.
[174] “Đám mây” là mạng máy chủ vật lý toàn cầu…
[175] Đức Phanxicô, Laudato si’, số 9: AAS 107 (2015) 850.
[176] Laudato si’, số 106: AAS 107 (2015) 890.
[177] Laudato si’, số 60: AAS 107 (2015) 870.
[178] Laudato si’, số 3.13: AAS 107 (2015) 848.852.
[179] Augustinô, De Civitate Dei XIX, 13, 1: PL 41, 460.
[180] X. Vatican II, Gaudium et spes, số 77-82; Đức Phanxicô, Fratelli tutti, số 256-262; Dignitas infinita, số 38-39; SGKHTCG, số 2302-2317.
[181] Vatican II, Gaudium et spes, số 78: AAS 58 (1966) 1101.
[182] Đức Phanxicô, Sứ điệp Hòa bình 57, số 6: LOR, 14-12-2023, tr. 3.
[183] X. SGKHTCG, số 2308-2310.
[184] X. Vatican II, Gaudium et spes, số 80-81: AAS 58 (1966) 1103-1105.
[185] Đức Phanxicô, Sứ điệp Hòa bình 57, số 6: LOR, 14-12-2023, tr. 3; x. Huấn từ G7 về IA (14-06-2024), tr. 2.
[186] Đức Phanxicô, Huấn từ G7, tr. 2; x. Tuyên bố Phái đoàn Tòa Thánh LHQ (03-04-2024) về hệ thống vũ khí tự động.
[187] Đức Phanxicô, Fratelli tutti, số 258: AAS 112 (2020) 1061; x. Vatican II, Gaudium et spes, số 80.
[188] Vatican II, Gaudium et spes, số 80.
[189] X. Đức Phanxicô, Sứ điệp Hòa bình 57, số 6: LOR, 14-12-2023, tr. 3.
[190] Gioan Phaolô II, Hành vi phó dâng Năm Thánh Giám mục (08-10-2000), số 3.
[191] Đức Phanxicô, Laudato si’, số 79: AAS 107 (2015) 878.
[192] X. Bênêđictô XVI, Caritas in veritate, số 51: AAS 101 (2009) 687.
[193] X. Dignitas infinita (2024), số 38-39.
[194] X. Augustinô, Confessiones I, 1, 1: PL 32, 661.
[195] X. Gioan Phaolô II, Thông điệp Sollicitudo rei socialis (30-12-1987), số 28-29.37: AAS 80 (1988) 548.550-551.563-564.
[196] Vatican II, Gaudium et spes, số 14: AAS 58 (1966) 1036.
[197] Đức Phanxicô, Dilexit nos (24-10-2024), số 18: LOR, 24-10-2024, tr. 6.
[198] Như trên, số 27, tr. 5.
[199] Như trên, số 25, tr. 5-6.
[200] Đức Phanxicô, Laudato si’, số 105: AAS 107 (2015) 889; so sánh R. Guardini, Das Ende der Neuzeit, 1965⁹, 87-tt.
[201] Vatican II, Gaudium et spes, số 34: AAS 58 (1966) 1053.
[202] Gioan Phaolô II, Thông điệp Redemptor hominis (04-05-1979), số 15: AAS 71 (1979) 287-288.
[203] N. Berdjaev, “Man and Machine”, in C. Mitcham – R. Mackey (ed.), Philosophy and Technology, Free Press, New York 1983², 212-213.
[204] Như trên, tr. 210.
[205] G. Bernanos, “La révolution de la liberté” (1944), in Le Chemin de la Croix-des-Âmes, Rocher, Monaco 1987, 829.
[206] X. Đức Phanxicô, Gặp sinh viên trường Barbarigo (23-03-2019): LOR, 24-03-2019, tr. 8; Huấn từ các Đại học Giáo hoàng (25-02-2023): AAS 115 (2023) 316.
[207] Đức Phanxicô, Laudato si’, số 112: AAS 107 (2015) 892-893.
[208] X. Bonaventura, Collationes in Hexaemeron XIX, 3; Đức Phanxicô, Fratelli tutti, số 50: AAS 112 (2020) 986.
[209] Đức Phanxicô, Sứ điệp Truyền thông 58 (24-01-2024): LOR, tr. 8.
[210] Như trên.
[211] Như trên.
[212] Đức Phanxicô, Tông huấn Gaudete et exsultate (19-03-2018), số 37: AAS 110 (2018) 1121.
[213] Đức Phanxicô, Sứ điệp Hòa bình 57, số 6: LOR, 14-12-2023, tr. 3; x. Laudato si’, số 112; Gaudete et exsultate, số 46.
[214] X. Đức Phanxicô, Laudato si’, số 112.
[215] X. Đức Phanxicô, Huấn từ “Thiện ích chung trong kỷ nguyên số” (27-09-2019): AAS 111 (2019) 1570-1571.