Hiện nay có bao nhiêu Kitô hữu thuộc các Giáo hội Công giáo Đông phương?

Chia sẻ đến mọi người cùng đọc

Với lịch sử kéo dài hơn 2.000 năm, các Kitô hữu Đông phương đã góp phần định hình khuôn mặt của phương Đông, từ những thành thị cho đến toàn thể quốc gia. Nhưng hôm nay, con số họ là bao nhiêu?

“Anh chị em là một đàn chiên bé nhỏ, nhưng mang một trách nhiệm lớn lao trên miền đất đã chứng kiến sự khai sinh và lan tỏa của Kitô giáo”, Đức Thánh Cha Phanxicô đã viết như thế trong thư gửi các Kitô hữu Đông phương nhân dịp Giáng Sinh năm 2024. “Ước gì anh chị em luôn làm chứng cho Đức Giêsu giữa những thử thách! Sự hiện diện của anh chị em là quý giá đối với Trung Đông. Anh chị em như men trong bột.”

Những lời mạnh mẽ này nhắc nhở chúng ta rằng ơn gọi của các Kitô hữu Đông phương vượt qua số lượng: họ được kêu gọi làm ánh sáng và muối cho thế giới, giữa một nhân loại nhiều vết thương. Sự hiện diện khiêm tốn và trung tín của họ là một phúc lành âm thầm, trên chính mảnh đất thấm đẫm vẻ đẹp của đức tin nhưng cũng bị xé nát bởi những cuộc xung đột.

Từ đầu thế kỷ XX, các Kitô hữu Đông phương đã và đang phải đối mặt với chiến tranh và thảm sát, khiến số lượng của họ ngày càng giảm sút. Nhưng hiện tại, có chính xác bao nhiêu người? Theo thống kê gần đây của tổ chức Œuvre d’Orient, hiện nay có khoảng 176 triệu Kitô hữu Đông phương (chính xác là 175.672.000 người).

Con số này, dù có vẻ khô khan về mặt thống kê, thực ra là một bức tranh khảm sống động gồm nhiều dân tộc, ngôn ngữ, nghi lễ và truyền thống – tất cả cùng hiệp nhất trong lời tuyên xưng một Đức Kitô phục sinh duy nhất. Mỗi Giáo hội, với những đặc điểm thần học, phụng vụ và văn hóa riêng biệt, cùng hòa quyện trong bản giao hưởng thiêng liêng của Kitô giáo Đông phương: bén rễ sâu trong các vùng đất Kinh Thánh nhưng luôn hướng về sự phổ quát của Tin Mừng.

Dưới đây là bảng số Kitô hữu đông phương và tỉ lệ % với dân số nước đó:

Quốc gia Số Kitô hữu Tỉ lệ dân số Nghi lễ chính
Ukraina 39.200.000  87,4% dân số Chính Thống giáo Byzantine
România 17.590.000  92% Chính Thống giáo Byzantine
Hy Lạp 9.850.000  93% Chính Thống giáo Byzantine
Síp (Cyprus) 975.000  75% Chính Thống giáo Byzantine
Liban 1.810.000  32,4% Đông phương Công giáo & Chính Thống
Palestine 60.000  2% Đông phương Công giáo & Latin
Israel 177.000  2% Đông phương Công giáo & Chính Thống
Jordan 880.000  8% Đông phương Công giáo & Latin
Ai Cập 10.000.000  10% Chính Thống Coptic
Thổ Nhĩ Kỳ 80.000  0,1% Chính Thống giáo Hy Lạp & Armenia
Armenia 3.500.000  99% Tông truyền Armenia (Apostolic)
Syria 1.500.000  6% Đông phương Công giáo & Chính Thống
Iraq 250.000  dưới 2% Canđê, Assyria, Syria
Iran 300.000  dưới 1% Assyria & Armenia
Ấn Độ 39.000.000  0,1% dân số Latinh, Syro-Malabar, Syro-Malankara
Eritrea 2.000.000  50% dân số Đông phương Công giáo Eritrea
Ethiopia 50.300.000  43% dân số Chính Thống giáo Ethiopia

Chú thích:

  • Các Giáo hội “Đông phương Công giáo” là những Giáo hội hiệp thông trọn vẹn với Đức Giáo hoàng, nhưng vẫn giữ nguyên phụng vụ và truyền thống riêng (như nghi lễ Byzantine, Syria, Armenia, Coptic…).
  • Số liệu và nghi lễ có thể bao gồm nhiều hệ phái trong cùng một quốc gia. Bảng trên thể hiện nghi lễ phổ biến nhất.

Các Giáo hội Đông phương có tuổi đời ngang với Kitô giáo. Chính tại phương Đông, Giáo hội được khai sinh và từ đó lan rộng khắp Đế quốc Rôma. Các Giáo hội này mang trong mình ký ức sống động về các Tông đồ tiên khởi, các vị tử đạo và các Giáo phụ, những người mà lời cầu nguyện của họ vẫn tiếp tục nuôi dưỡng đức tin cho các tín hữu hôm nay.

Các Giáo hội này rất đa dạng, quy tụ nhiều truyền thống phụng vụ và linh đạo khác nhau:

  • Các Giáo hội Công giáo Đông phương (như Maronite, Melkite, Chanđê, Công giáo Coptic, Công giáo Armenia),

  • Các Giáo hội Chính Thống Đông phương (như Chính Thống Coptic, Syria, Armenia Tông truyền),

  • Các Giáo hội Chính Thống Byzantine hiện diện chủ yếu tại Liban, Syria hay Palestine.

Sự phong phú này cho thấy đa dạng trong biểu đạt đức tin, nhưng vẫn một lòng trung thành với Đức Kitô.

Cộng đoàn Kitô hữu đã sống suốt 2.000 năm ở phía nam và phía đông Địa Trung Hải. Họ đã chứng kiến sự ra đời của Hồi giáo cách đây mười ba thế kỷ, và từ đó xây dựng những mối quan hệ đôi khi phong phú, đôi khi khó khăn với người Hồi giáo.

Bất chấp những căng thẳng, các mối quan hệ ấy cũng mở ra các cuộc đối thoại phong phú – một sự đối thoại của cuộc sống và của đức tin, trong đó Kitô hữu thường là những chứng nhân của một nền chung sống khả thi. Họ là những người trung gian văn hóa, những người chuyển tải giá trị và tri thức.

“Những Kitô hữu này không phải là con cháu của thập tự quân hay các nhà thực dân, mà là Kitô hữu của Lễ Hiện Xuống.” Họ là những chứng nhân của một nền văn hóa đa dạng, là những người kiến tạo hòa bình, là công dân tận tụy phục vụ quốc gia mình.

Sự trung thành của họ với Đức Kitô được thể hiện qua việc bám rễ vào đời sống cụ thể: trong giáo dục, y tế, bác ái, và trong đối thoại liên tôn. Đức tin của họ không chỉ là một ký ức – nhưng là một chứng tá sống động, là một niềm hy vọng được trao ban cho mọi người.

Và chính trong tình huynh đệ giữa các Giáo hội Đông phương – những Giáo hội thường cùng bị bách hại, nhưng cũng cùng kết hiệp trong cầu nguyện và chờ đợi Nước Trời – mà hy vọng ấy được dưỡng nuôi không ngơi.

Nguồn: Combien y a-t-il de chrétiens d’Orient aujourd’hui ?. Aleteia.

 

Chuyển ngữ André Tuấn, AA.